Chú giải từ câu 001 – 204 (Quyển II)
CHÁNH VĂN
1. Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương.
Chẳng qua là Nam-Việt vô vương,
Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.
Mới mấy năm sao quá hao-mòn,
8. Mùa-màng thất, đói đau không thuốc.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 tới câu 08) :
-Đoạn nầy ý nói Đức Thầy dùng trí huệ nhìn lại cuộc sống của dân chúng, đang gặp cảnh sưu cao thuế nặng mà động mối từ tâm. Từ khi nước Việt Nam bị người Pháp đặt quyền thống trị, dân ta gánh chịu biết bao cảnh lầm than cơ cực. Bởi: “Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thật là thảm thương”.(Sấm Giảng, Q.1)
-Nhận xét cuộc diện trong đời, sự giàu nghèo thay đổi rất mau chóng, bởi thiên tai địa ách cứ dồn dập mãi với đồng bào ta. Sự chuyển biến mới xảy ra chưa được bao năm mà tiền của hao hụt, đất vườn thay đổi, dân chúng nghèo đói, bệnh tật không sao kể xiết.
CHÚ THÍCH:
ĐOÁI NHÌN: Đoái là ngoảnh lại, tưởng nhớ đến. Nhìn là trông thấy. Nghĩa chung là nhìn lại, trông tưởng đến. “Chiều chiều mây phủ trời hồng, Đoái nhìn ngọn trúc, đau lòng thần hôn”.(Ca dao). Trong bài “Luận Vệc Tu hành”, Đức Thầy nói:
“Đoái thấy người đời lòng bắt chán,
Dương trần lầm lạc đáng ưu phiền”.
CUỘC THẾ: Cũng đọc là cục thế. Có nghĩa cục diện trong đời hoặc tình trạng hay cảnh trạng trong đời. Đức Thầy có câu: “Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy”.(Sa Đéc)
SƯU THUẾ: Cũng gọi là sâu thuế. Các công việc của nhà nước mà toàn dân phải làm gọi là sâu (sưu). Các sắc thuế mà mọi người dân phải đóng cho nhà nước gọi là thuế. Đây chỉ cho người Pháp cai trị nước ta, bắt dân ta phải làm sâu, đóng thuế rất nặng nề khổ nhọc.
NAM VIỆT: Quốc hiệu nước Việt Nam vào thời nhà Triệu (206-111 TCN). Thời Nguyễn gọi Nam Việt là miền Nam nước Việt Nam, thời Pháp thuộc gọi là Nam Kỳ.
VÔ VƯƠNG: Không có Vua. Ý chỉ dân tộc ta hiện tình bị mất chủ quyền (mất nước), dưới quyền thống trị của người Pháp.
TAI ÁCH: Tai nạn khốn khổ. Ý nói cuộc tai nạn dồn dập tới, hết nạn nầy tới nạn kia không ngớt, “tai trời ách nước”. Đức Thầy có câu:
“Ách trời nạn nước thình lình,
Người hung cứ mãi chống kình với Ta”.
(Dặn Dò Bổn Đạo)
BẠC KHÔNG CÁNH ĐỔI THAY CHẲNG BIẾT: Tiền bạc của cải tuy không có cánh, nhưng sự tiêu xài từ tay người nầy, sang tay người khác rất lẹ. Đây ý nói thời nay sự nghèo giàu thay đổi rất mau chóng. Đức Thầy từng nói:
“Chữ phù vân phú quí nay mai,
Luân với chuyển dời qua đổi lại”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
CHÁNH VĂN
9. Thương hại bấy lê-dân đứt ruột,
Thảm vợ con đói rách đùm-đeo.
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
12. Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc.
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
16. Đường vinh-nhục rủi may một lát.
Ai phú-quí vào đài ra các,
Ta Điên Khùng thương hết thế-trần.
Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần,
20. Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.
LƯỢC GIẢI (từ câu 09 tới câu 20):
-Thấy sanh linh lâm cơ đồ thán, lòng Đức Thầy quá thương xót. Kẻ nghèo lại gặp cảnh nghèo hơn: nào vợ đau con đói, mùa màng ngập lụt; nào vật giá gia tăng đắt đỏ, bởi ngoại bang muốn bao vây kinh tế dân ta.
-Lại nữa, cơ luân chuyển mỗi phút mỗi xây không ngừng nghỉ, cuộc suy thạnh của con người đổi thay trong nháy mắt. Kẻ giàu sang họ đam mê theo sự ăn sung mặc sướng, chẳng chút để tâm đến những người nghèo khổ chung quanh. Lòng từ bi của đấng Giác ngộ lúc nào cũng thương khắp chúng sanh, nên đã nhiều lần giáo dân hướng thiện, nhưng chẳng được mấy người tỉnh ngộ tu hành.
CHÚ THÍCH:
ĐỨT RUỘT: Nghĩa của chữ “đoạn trường”. Ý nói tình từ bi của Phật đối với chúng sanh rất tha thiết, như tình mẹ thương con bị đứt từng đoạn ruột.
Thuở xưa, ông Hứa Tinh Vương (Hứa Chơn Quân), bình sanh ưa thích săn bắn. Hôm nọ, ông vào rừng bắn con nai nhỏ bị tên, nai chưa chết mang tên chạy sâu vào rừng. Ông và tùy tùng rượt theo đến bên hố, thấy nai con bị tên nằm dưới đất, nai mẹ cắn cỏ nhai nhổ cho con, liếm chỗ mũi tên và sa nước mắt. Thấy đoàn người rượt đến, nai mẹ vì thương con không nỡ bỏ chạy, bỗng té xỉu bên nai con, thế là mẹ con đều bị bắt. Hứa Tinh Vương cho người mang về làm thịt hết, khi mổ ra thấy ruột của nai mẹ bị đứt từng đoạn, còn nai con tuy bị tên nhưng ruột vẫn còn nguyên.
Hứa Tinh Vương thấy vậy động mối từ tâm liền đem cung tên bẻ bỏ hết, từ ấy ông chuyên tâm hành Đạo, sau đặng thành chánh quả.
Xét ra tình mẹ thương con của loài vật còn như thế, huống chi loài người, lòng thương chúng sanh của Phật, của Thầy hẳn còn sâu đậm hơn nhiều. Đức Thầy từng nói:
“Từ bi tình ấy đoạn trường,
Kể qua tích cũ mà lường lòng đây”.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
TỈNH TÂM: Lòng thức tỉnh, sáng biết hết mê lầm.
TÌM ĐẠO: Tìm hiểu đường lối giáo lý chơn chánh để tu hành theo. Đức Thầy từng kêu gọi:
“Sớm thức tỉnh tâm tầm Đạo chánh,
Sau nầy về Phật với ngôi Tiên”.
(Luận Việc Tu hành)
CHÁNH VĂN
21. Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo,
Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào.
Lời Thánh Hiền để lại biết bao,
24. Sao trai gái chẳng coi mà sửa ?
Đời tận thế mà còn lần-lựa,
Chẳng chịu mau cải dữ về lành.
Làm Phật-Nhi phải được lòng thành,
28. Thì mới đặng vãng-sanh Cực-Lạc.
Tương với muối cháo rau đạm bạc,
Nghèo lương hiền biết niệm Di-Đà.
Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,
32. Lại được thấy cảnh Tiên nhàn-hạ.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 21 tới câu 32):
-Các bậc Hiền Thánh xưa kia đã truyền dạy biết bao lời lẽ, phận làm trai phải giữ tròn câu trung hiếu, còn gái thì giữ vẹn tiết trinh, mới xứng đáng công dân ưu tú của nước nhà và cũng chẳng hổ là con cháu của giống Tiên rồng.
Cuộc đời Hạ ngươn sắp đến ngày tàn cỗi để lập lại Thượng ngươn, thế mà chúng sanh mãi trù trừ lần lựa, chẳng sớm lo cải ác tùng thiện: “Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá tánh ăn năn đã muộn”(Diệu Pháp Quang Minh).
-Đã quy y theo Đạo và nguyện làm tôi con của chư Phật, thì phải thật tâm thành ý niệm Phật làm lành, sống cuộc đời đơn giản, đạm bạc rau tương để giữ tròn giới hạnh, tức được khỏi tà ma nhiễu loạn, kiến diện Tiên bang, sống cảnh đời an nhàn tự tại. Sau cùng được vãng sanh về Phật quốc, khỏi đường sanh tử luân hồi.
CHÚ THÍCH:
TRUNG LIỆT: Trung nghĩa với tiết liệt. Người dám liều chết để giữ tròn khí tiết của mình đối với Quốc dân.
HIỀN THẢO: Biết ăn ở hiền lành, đúng với Đạo nghĩa gọi là hiền. Tôn kính và bảo dưỡng Ông bà Cha mẹ gọi là thảo. Những kẻ hiền thảo bao giờ cũng có lòng trung liệt, cũng như người trung liệt không bao giờ để mất hiếu thảo, như Tử Lộ, Nhạc Phi bên Trung Hoa và Ngài Nguyễn Trung Trực tại Việt Nam…Là người tín đồ PGHH thì hai việc Trung và Hiếu không thể nào để thiếu, vì đó là hai điều trong “Tứ Đại Trọng Ân”. Đức Giáo Chủ từng dạy:
“Hiếu Trung hãy liệu cho xong,
Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về”.
(Sám Giảng, Q.3)
TIẾT TRINH: Cũng đọc là trinh tiết, tức là lòng trong sạch của giới nữ, không thể yêu đương một người đàn ông nào không phải là chồng chính thức của mình: “Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”(Lục Vân Tiên).
NAM TRÀO: Cũng đọc là Nam triều tức là triều đình nhà Nam. “Gái Nam Trào”, ý nói hiện nay người con gái nào giữ vẹn tiết trinh, mới xứng đáng là tôi dân của nước Việt Nam sau nầy.
LỜI THÁNH HIỀN: Chỉ cho lời giáo huấn của Đức Khổng Tử và các bậc Thánh Triết Hiền Nhân thuộc môn đồ kế truyền Đạo lý của Ngài. Những lời lẽ ấy gồm trong Ngũ Kinh: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Tứ truyện (Tứ thơ: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.) Trong đó biết bao lời lẽ chỉ dạy con người tu tập theo để trở nên bậc Thánh Hiền như các Ngài. Trong “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Thầy có nói:
“Chữ Thánh Hiền mới được nôm na,
Ta thỏa chí hô hào Trung nghĩa”.
TẬN THẾ: Hết đời, tiêu diệt cõi đời cũ để lập lại cõi đời mới. Ví như miếng vườn cũ, cây trồng đã lâu năm, hiện giờ bị đốc (chạ) hết, nên phá bỏ để trồng lại. Một đoạn giảng khác trong Quyển 2, Đức Thầy đã nói:
“Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,
Nay tận diệt lập đời trở lại”.
LẦN LỰA: Trì hoãn mãi, tánh trù trừ giải đãi, hẹn lần hẹn lựa.
Xưa, có một nhà Sư khuyên một người bạn là Trương Tố Lưu niệm Phật. Lưu nói:“Tôi có ba việc làm chưa xong: một là quan tài của ông thân còn ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là con gái út chưa gả chồng. Chờ 3 việc ấy xong tôi sẽ tu niệm. Cách ít tháng sau, Lưu bị bạo bịnh mà chết. Nhà Sư đến cầu siêu và điếu Lưu một bài thi:
“Bạn tôi tên là Trương Tố Lưu,
Khuyên ông niệm Phật hẹn ba điều.
Ba điều chưa vẹn vô thường đến,
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau !”
Đức Thầy cũng từng bảo:
“Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh,
Lúc bắt hồn mắc việc cũng đi”.
Và “Hãy rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu” (Tư Tưởng)
CẢI DỮ VỀ LÀNH: Nghĩa của chữ “cải ác tùng thiện”, tức cải sửa những điều hung dữ để trở về con đường lành, với công việc lành. Trong bài Quy Y, Đức Thầy dạy:“…Nay con nguyện cải hối ăn năn làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo”.
PHẬT NHI: Cũng gọi là Phật tử, tức người đã quy y theo đạo Phật, đã tin Phật và nguyện làm tôi con của Đức Phật; từ đó chuyên tâm hành trì theo Pháp hạnh của Phật, nên sớm muộn gì cũng thành Phật, thế gọi là Phật nhi. Trong Kinh “Tứ Thập Nhị Chương”, Đức Phật có phán: “Những Phật tử tuy cách ta từ ngàn dặm mà thật tâm gìn giữ giới luật của ta, chắc chắn sẽ đắc đạo như ta. Còn những kẻ tuy ở gần bên ta, mà không trì hành giới luật của ta thì không xứng đáng là Phật tử và không thể đắc đạo”. Đức Thầy hiện nay cũng dạy:
“Đem tâm hồi hướng gốc lành,
Làm tôi Phật Tổ chí thành chí chơn”.
(Cho Ông Cò Tàu Hảo)
LÒNG THÀNH: Cũng gọi là thiềng lòng, tâm thành, thành tâm (xem chú thích tr.142 Tập 1/3).
VÃNG SANH:(Xem chú thích tr.209 Tâp 1/3).
CỰC LẠC: Đọc cho đủ là Cực Lạc Quốc, là cõi nước tột vui, tối diệu. Phạn ngữ: (Scr.) là Sukhavati, chỉ Quốc độ của Đức Phật A Di Đà, do công đức và nguyện lực của Ngài tạo nên. Căn cứ theo những quyển kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô lượng Thọ thì cách đây mười muôn ức cõi Phật, về hướng Tây có một thế giới, gọi là Cực Lạc (cũng gọi là An Dưỡng Quốc); cõi nầy từ đất cát đến cung điện toàn bằng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não). Hoa sen nơi đó có năm sắc; nước có tám công đức (1. Trừng thanh tức lặng trong, 2. Thanh lãnh tức man mát, 3. Cam mỹ tức ngon ngọt, 4. Khinh nhuyễn tức mềm nhẹ, 5. Nhuận trạch tức trơn bóng), 6. An hoà tức yên ổn hòa nhã, 7. Trừ cơ khát và 8. Nuôi dưõng các căn.); chim kêu thành tiếng pháp, cây báu diễn lời lành; y phục, nhà cửa và các thức ăn, uống đều tùy ý hiện ra. Nói tóm lại nơi ấy là một cõi hoàn toàn an vui, trong sạch, không có những nỗi khổ và ô trược như cõi Ta Bà của chúng ta đang ở.
Trong Kinh Tiểu Bản Di Đà, Phật có phán với Ngài Xá Lợi Phất:“Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc ? Kỳ Quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thụ chi lạc, cố danh Cực lạc”.(Cõi ấy vì sao gọi là Cực Lạc ? Vì chúng sanh cõi ấy không có những sự khổ, chỉ huởng các sự vui; bởi thế nên gọi là Cực Lạc).
Kẻ tu hành bất luận xuất gia hay tại gia, nếu ai có đủ tín, nguyện, và trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật một cách chí thành, chí thật thì khi lâm chung được Đức Phật A Di Đà tiếp rước, linh hồn được vãng sanh về cõi của Ngài, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
TƯƠNG VỚI MUỐI CHÁO RAU ĐẠM BẠC: Câu nầy ý khuyên người tu nên trường chay giới sát để thoát khỏi luân hồi quả báo. Đức Thầy từng dạy:“Tương dưa giữ phận cho tròn…”.(Thiên Lý Ca). Câu giảng nêu trên cũng còn có nghĩa bảo mỗi người nên sống một cách:“Lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”(Luận Về Bát Chánh/Chánh Tư Duy); chẳng nên ăn xài phung phí, để có thì giờ trau thân gìn đạo, như Đức Giáo Chủ từng dạy:
“Phận tu hành đạm bạc rau tương,
Miễn cầu được an khương bốn bể”.
(Nang Thơ Cẩm Tú)
NIỆM DI ĐÀ: Trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, tức tu Pháp môn Tịnh Độ (Niệm Phật). Kinh A Di Đà, Phật nói:“Nếu có người thiện nam tín nữ nào, nghe ta giải về Phật A Di Đà mà trì niệm danh hiệu của Ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày…dẫn tới 7 ngày mà tâm không xao lãng, cứ chuyên cần như vậy; đối với hạng người ấy, các tội đều tiêu diệt, tức được nhiều căn lành phước đức nhân duyên và đến lúc lâm chung sẽ có Phật A Di Đà cùng chư Thánh hiện ra trước mắt mình, nên tâm không điên đảo, tức thời được vãng sanh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà”.
TINH MA: Tà ma quỉ quái. Nghĩa bóng là chỉ cho hạng hung tàn bạo ác. Một đoạn khác, Q.2, Đức Thầy bảo:
“Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà ma yêu quái chật đường”.
CHÁNH VĂN
33. Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật được Trời,
36. Coi phép lạ của Tiên của Thánh
Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh,
Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.
Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn,
40. Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt.
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma-Ha,
44. Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.
LƯỢC GIẢI ( từ câu 33 tới câu 44 ):
-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết sau nầy trên vùng Thất sơn sẽ có nhiều việc quí báu lạ lùng:“Chừng bảy núi lầu son lộ vẻ, Thì người già hóa trẻ dân ôi !”(Đáp Lời Ông Lương Văn Tốt). Nếu ai sớm giác ngộ tu hành, trau sửa tâm tánh cho được thuần lương thanh khiết thì chẳng những đặng kiến diện Phật Tiên, còn được xem cảnh báu lạ sẽ diễn ra ở miền Bảy núi:
“Mắt nhìn thấy Thần thông biến hóa,
Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
-Vả lại, cuộc đời quá mong manh, sắp đến hồi biến hoại, cơ tuyển chọn hiền còn dữ mất, thế mà kẻ giàu sang chưa biết hồi tâm hướng thiện, lại còn khinh khi lấn áp dân nghèo. Đức Giáo Chủ kêu thúc mọi người sớm quay về chánh Đạo và trau giồi trí tuệ cho tinh minh. Về cách thức tu huệ, Ngài đã dạy:“Người học Đạo muốn mở mang trí huệ cần phải tìm phương pháp diệt cái vô minh (tối tăm ngu muội).
Muốn diệt cái vô minh trước phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng tự lập con đường rõ ràng, duy nhứt của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương mục mà bài trừ những thành kiến cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siểm, dua nịnh, ích kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở mang vậy !”(Trong Việc Tu Thân Xử Kỷ – tr. 458-459 SGTVTB 2004).
-Khi người ta đã đứng vững trên con thuyền Đại Đạo và đạt được trí huệ thì những tai nạn hãi hùng, các cuộc chiến tranh binh lửa khắp hoàn cầu sắp tới đây, không thể làm hại mình được, bởi chư Phật và Đức Thầy lúc nào cũng hộ trì cho những kẻ chân tu.
CHÚ THÍCH:
BẢY NÚI: (Xem chú thích tại tr. 106 Tập 1/3)
TU TÂM DƯỠNG TÁNH: Trau sửa cái tâm và điều dưỡng cái tánh. Tâm và Tánh đồng một bản thể nhưng vì ứng dụng nên có hai tên. Vẫn biết tâm tánh của chúng sanh và chư Phật gốc cũng như nhau, nhưng vì tâm tánh của chúng sanh bị vô minh vọng hoặc nên nay cần phải tu dưỡng lại, chớ không phải tìm cầu cái tâm tánh nào khác.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật bảo ông A Nan:“Tất cả chúng sanh cùng mười phương chư Phật, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không hai. Bởi các ông bị vô minh vọng tưởng nên sanh ra mười phương hư không và thế giới nhiều như vi trần…Chẳng khác nào một điểm mây nhỏ sanh trong nền trời xanh. Nếu nay hết mây, tức ngộ được chân tánh thì mười phương hư không và thế giới đều tiêu diệt”.
Vậy hành giả cần tu sửa cho sạch hết các vọng tâm phiền não và điều dưỡng cái tánh cho được hòa vào một bản thể giác ngộ với chư Phật, tất nhiên huệ nhựt hiện bày, dứt hết nghiệp sanh tử, tự tại giải thoát, như Đức Thầy đã dạy trong Quyển Khuyến Thiện:
“Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn”.
Hoặc là:
“Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành,
Đừng cho ma nghiệp vọng tâm sanh.
Quay về cội phúc đường chân đạo,
Phật pháp thiền na dốc thực hành”.
(Cho Cô Võ Thị Hợi)
MỎNG MẢNH: Rất mỏng và yếu, dễ rách, dễ gãy bể. Ý chỉ cuộc đời sắp hư hoại:
“Đời nầy mỏng tựa màng thưa”.(Sấm Giảng Q.1) XẢ THÂN: Dám liều thân, không kể thân mình. Do chữ “xả thân tìm Đạo”; xả bỏ lòng vị kỷ tham lam, dốc hết tâm lực để tìm đạt được Đạo. Đức Thầy từng dạy:“Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”(Bát Chánh/ Chánh Tư Duy).
BÁT NHÃ THOÀN: Cũng đọc là thuyền bát nhã. Bát Nhã là phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Prajna, một danh từ đặc biệt trong Phật pháp, bao gồm nhiều ý nghĩa, dịch gọn là Trí huệ, là thanh tịnh sáng suốt. Bát nhã lại có 3 thứ:
1.- Thật tướng bát nhã: Cái linh trí sáng mầu, thường tồn bất biến của mỗi chúng sanh đều sẵn có (trí vô sư).
2.- Quán chiếu bát nhã: Cái trí sáng quán sát thấu suốt, phân biệt các pháp, người tu hành nhờ tịnh lự, tư duy mà mở thông.
3.- Văn tự bát nhã: Sự sáng suốt, thông hiểu lý nghĩa, mầu nhiệm cao sâu trong các kinh điển đạo Phật; nhà tu nhờ học rộng nghe nhiều, sưu tầm tra cứu mà thấu đạt.
Sở dĩ gọi Bát Nhã là chiếc thuyền, là vì trí huệ có diệu năng đưa mình và độ chúng từ bờ mê sang bến giác. Chính nó là một trong sáu pháp “Ba-la-mật” của chư Bồ Tát thường hành. Đức Thầy từng bảo:
“Thuyền bát nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:“Trí huệ (Bát nhã) là chiếc thuyền bền chắc, không một lượn sóng dục tình nào đánh đắm được, nó hay đưa người khỏi biển: sanh, lão, bịnh, tử. Là món thuốc thần diệu chữa lành các thứ bịnh thất tình lục dục.v.v…Là ngọn đuốc tột sáng, chiếu tan lớp vô minh vọng hoặc. Là lưỡi búa (kiếm) thật bén chặt đứt cội phiền não, tà kiến…”
Đức Thầy hiện nay cũng bảo:
“Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,
Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.
(Hiếu Nghĩa Vi Tiên)
Bởi diệu năng của trí Bát nhã như thế, nên Ngài bảo:“Phải xả thân tầm Bát Nhã thoàn”.(Kệ Dân, Q.2)
HOÀN CẦU: Khắp cả địa cầu, khắp cả thế giới.(Xem chú thích chữ Địa cầu tại tr.35 Tập 1/3)
MA HA: Phiên âm của Phạn ngữ (Scr.) Mahâ, dịch nghĩa là rộng lớn. Sự rộng lớn ấy ví như hư không, không bờ bến, nó vẫn rỗng thông sáng tỏ, đồng với bản thể của đạo tâm. Cho nên khi nói đến Ma Ha tức là nói đến Đại Đạo. Vậy Đức Thầy dạy chúng ta:“…sớm kiếm chữ Ma Ha”, là bảo sớm tìm Đại Đạo, vì trong đó có đủ giáo lý diệu mầu giúp ta hườn nguyên phản bổn, tức trực kiến được bản thể chơn như tự tánh. Đức Thầy dạy:
“Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp,
Cho đời thấu tỏ Đạo ma ha”
(Tối Mùng Một)
CHÁNH VĂN
45. Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu.
Chữ Nam-Mô dẹp được lòng sầu,
48. Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.
Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh,
Thương những người đói-rách cơ-hàn.
Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san,
52. Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh.
LUỢC GIẢI (từ câu 45 tơí câu 52):
Đoạn nầy dạy hai thời cúng lạy của mỗi tín đồ PGHH, cần phải thực hiện hằng ngày, chớ nên xao lãng, bởi:“Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu, Thì sẽ được toà chương dựa kế”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). Còn sự niệm Phật tuy vỏn vẹn có sáu chữ Di Đà, nhưng nếu ai chuyên tâm tưởng niệm tất được nhiều lợi ích, như hiện tại sẽ khỏi tai nạn sầu khổ và tương lai đặng dự Hội Long Hoa, chầu mừng Phật Thánh. Vì ngày ấy sẽ có:
“Phật, Thánh, Tiên, Đông Độ lướt sang,
Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.
(Nang Thơ Cẩm Tú)
-Những kẻ giàu sang thường cậy vào tiền của lên mặt khinh khi kẻ khác khiến ai trông vào cũng chán ghét. Còn hạng cơ bần nghèo túng ai nhìn tới cũng thương hại, đó là tâm trạng chung của xã hội loài người. Đức Giáo Chủ thường đề cập đến:
“Người sao lại bỉ bàng tôm cá,
Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng.
Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng,
Lại không đủ bữa rối nhăng đời người”.
(Bóng Hồng)
-Đức Thầy còn cho biết cảnh phồn hoa đô thị hiện giờ, tuy thấy đầy sự ăn sung mặc sướng, tiền bạc lụa là nhưng chẳng vinh hạnh bằng cảnh rừng núi tại vùng Thất sơn sau nầy. Bởi:
“Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
Tới ngày thượng cổ điểu hòa mai”.
(Đến Làng Nhơn Nghĩa)
CHÚ THÍCH:
TƯỞNG NHỚ PHẬT: tức là niệm Phật. Do chữ “Niệm Phật Ức Phật”. Ý nói người niệm Phật, lạy Phật cần phải thường xuyên và thiết tha thành khẩn, tưởng nhớ Phật như kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu mới mong kết quả. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:“Nhớ Phật, tưởng Phật thường xuyên thì lúc hiện tiền hoặc tương lai quyết định thấy Phật, thành Phật; chẳng cần phương tiện mà tự nhiên tâm địa khai thông”(Ức Phật, niệm Phật hiện tiền tương lai tất định kiến Phật, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai). Cho nên ngày nay Đức Thầy thường dạy tín đồ:
“Đêm ngày tưởng Phật cho thường”(Sấm Giảng Q.1).
VỌNG CỬU HUYỀN: Vọng bái Tổ Tiên Ông Bà cha mẹ. Ý chỉ sự thờ cúng “Cửu Huyền Thất Tổ” của người tín đồ PGHH, phải thường xuyên mỗi ngày hai thời, không nên quên lãng. Đức Thầy đã dạy;
“Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,
Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.
(Từ Giã Làng Nhơn Nghĩa)
CHỮ NAM MÔ DẸP ĐƯỢC LÒNG SẦU: Nam mô là phiên âm của Phạn ngữ (Namah); nhưng chữ “nam mô” ở đây là nói gồm đủ sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ý dạy người trì niệm lục tự Di Đà sẽ tan hết tai nàn sầu khổ và kết quả cao quí:
“Cứu khổ nam-mô vô lượng phước,
Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh”.
(Tỉnh Bạn Trần Gian)
-Khi xưa Thái tử A Xà Thế nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa hạ ngục vua cha là Tần Bà Xa La và Mẫu hoàng Vi Đề Hy. Ở trong ngục thất quá sầu khổ, Hoàng hậu quì xuống hướng về Đức Phật, thành tâm khẩn nguyện nhờ Ngài ban vui cứu khổ. Cảm ứng đến Đức Thế Tôn, Ngài bèn dùng thần lực giúp cho bà thấy được cảnh giới Cực lạc và khuyên bà nên niệm Phật, để sau nầy được sanh vào cõi ấy. Bà Vi Đề Hy vâng lời Phật dạy chí tâm niệm Phật, ít hôm sau sự sầu khổ vơi dần, Thái tử A Xà Thế cũng hồi tâm cải hối, rước mẹ về xin lỗi và quay đầu hướng thiện (theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh).
Vấn đề nầy, trong Giảng Mười Một Hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:
“Niệm Phật vui thú thảnh thơi,
Buồn rầu giải hết, mặc người cười chê”.
Đức Thầy nay cũng cho biết:“Niệm chữ A Di dẹp lòng sầu”.(Muốn Rõ Đạo Mầu).
NHÀ TIÊN CỬA THÁNH: Có hai nghĩa:
1.-Chỉ cho cõi đời Thượng ngươn Thánh đức. Chừng ấy cơ trời mở Hội Long Hoa, chọn lọc hiền còn, dữ mất. Lúc đó sẽ có:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Không Buồn Ngủ). Người nào biết làm lành lánh dữ, niệm Phật tưởng Kinh sẽ được dự vào hội ấy mà an hưởng cảnh:
“Bồ đào rượu Thánh trà Tiên,
Muôn năm cộng lạc Chúa hiền tôi trung”.
(Nang Thơ Cẩm Tú)
2.- Chỉ cho nhà tu khi được đắc Đạo. Vì nếu ai chuyên trì Lục tự, dứt hết nghiệp nhân tội lỗi, không còn nhiễm ô trần tục, tức đặng trở về tâm hồn Tiên Thánh:“Cư trần bất nhiễm là người Thánh, Lẫn tục đừng mê chứng bực Hiền”.(Luận Việc Tu hành). Thế nên Đức Thầy hằng kêu gọi:
“Nhơn sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên”(Bóng Hồng)
CƠ HÀN: Đói và lạnh. Chỉ cho cảnh nghèo khổ túng thiếu, không đủ cơm ăn áo mặc.
PHỒN HOA:(Xem lại chú thích tại tr.211, Tập 1/3)
LÂM SAN: Cũng đọc là lâm sơn, có nghĩa rừng và núi. Đây chỉ cho miền Thất sơn. Đức Thầy có câu:
“Lâm san rày đã rời ra,
Dạo trong lê thứ vậy mà xét soi”.
(Vọng Bắc Hòa Nam)
VINH HẠNH: Vẻ vang và may mắn.
KIÊU HÃNH: Cậy mình lên mặt, làm cao, khinh khi kẻ khác. Ví dụ: Thấy người kiêu hãnh ai cũng ghét.
CHÁNH VĂN
53. Cõi trần thế hết suy đến thạnh,
Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn.
Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn,
56. Sau đắc đạo gặp điều cao-quí.
Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị,
Ta Điên Khùng mà tánh lương-hiền.
Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,
60. Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ.
Sau lập Hội thì già hoá trẻ,
Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn.
Đức Ngọc-Hoàng mở cửa thiên-môn,
64. Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.
LƯỢC GIẢI (từ câu 53 tới câu 64):
-Thể theo định luật tuần hườn trong vũ trụ, hễ hết suy tới thạnh, qua hồi gian nguy, tới lúc an lạc thạnh hưng. Kẻ tu hành cũng thế, lúc đang hành đạo phải gặp nhiều gian lao cực khổ nhưng đến khi quả mãn công viên thì có chi quí báu cho bằng.
-Thuở Đức Thầy mới khai Đạo, có lắm người chẳng tin nghe, lại còn bài bác, nhưng với lòng từ bi vì muốn cứu độ chúng sanh, chớ chẳng phải vì tiền bạc. Thế mà người đời không chịu xét kỹ, cứ theo nhạo chê phỉ báng.
-Đức Thầy còn cho biết: tới ngày lập Hội sẽ có cuộc thay hồn đổi xác rất mầu nhiệm ký bí, nhiều người già yếu được trẻ đẹp trở lại và có nhiều người tu được đắc thành Phật, Tiên, Thánh. Đó là do phép huyền diệu của Trời Phật ban thưởng cho người có công tu. Còn những kẻ gian tà xảo quyệt, sẽ bị luật đào thải diệt vong:
“Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời thượng cổ”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
CHÚ THÍCH :
HẾT SUY TỚI THẠNH: Suy là sa sút, kém yếu, suy bại. Thạnh là sáng sủa, phát đạt hưng thịnh. Đây là định luật xoay vần trong trời đất: hễ hết suy tới thạnh, hết vinh tới nhục. Đức Thầy có câu:
“Hưng vong suy thạnh xưa nay,
Cuộc đời vay trả, trả vay đổi dời”.
(Viếng Làng Phú An)
LÂM NGUY: Gặp lúc nguy hiểm nghèo ngặt. “Lâm nguy, may được giải nguy”(Lục Vân Tiên).
KHẢI HOÀN: Khải là vui mừng; hoàn là trở lại. Khải hoàn là thắng trận vui mừng khi trở lại:“Vui khúc khải hoàn”. Đức Thầy có câu:
“Dân được vui nhờ lúc khải hoàn”(GMTK, Q.4).
ĐẮC ĐẠO: Được đạo, đạt đạo. Ý chỉ nhà tu đến khi thành đạo (diệt trừ hết hạt giống sanh tử, công viên quả mãn). Tùy theo công đức của mỗi người mà chứng đắc quả vị.
DỊ NGHỊ: Bàn khác, có ý bác đi. Đây ý nói Đức Thầy ra đời khuyên người làm lành, làm phải mà có nhiều kẻ không chịu nghe, lại còn bài bác đủ cách.
ĐỔI XÁC THAY HỒN: Thay đổi hồn nầy qua xác khác. Cuộc thay đổi nầy có nhiều cách:
1./ Những người tâm hồn chơn chánh hiền lương nhưng thể xác đã già nua yếu đuối nên đến ngày biến thiên sấm nổ, Trời Phật sẽ cho đổi qua xác khác, trẻ trung mạnh khỏe hơn, như trong Cửu Khúc của ông Ba Thới có nói:
‘Kẻ mất hồn người vía bay xa,
Vía bay xa người ta còn lại.
Phật đem hườn vía lại thủ thân”.
Và trong Sấm Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai cũng bảo:
“Tu hành nhơn đức thì hơn,
Thay hồn đổi xác nhờ ơn cửu trùng”.
Đức Huỳnh Giáo Chủ nay đã cho biết:
“Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
Tận diệt nhơn gian trực tiên khoa.
Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,
Ly kỳ thiên định dĩ thiên-la”.
(Lộ Chút Cơ Huyền)
2./ Sau ba tiếng sấm nổ mọi chúng sanh đều bất tỉnh, người nào hiền đức thì được chư Phật Thánh dùng linh dược cứu sống. Bấy giờ xác thể già xấu được đổi lại đẹp trẻ hơn trước. Hoặc những linh căn có tu hành đầy đủ công đức, nhưng đã bỏ xác từ trước nay được Phật dùng huyền diệu cho sống lại bằng cách “Liên hoa hóa thân”; như trường hợp Thái Ất Chơn nhơn dùng hoa sen tạo ra xác thể cho học trò là Na Tra. Trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu:
“Thương cho người sống ít, thác nhiều,
Linh đơn Phật rưới mai chiều hóa tiên”.
Đức Thầy cũng bảo:
“Đến hội trăm quan còn hiện được,
Thì ra xác thịt có cần đâu ?”
(Cho Cô Hai Gương)
3./ Nguyên tâm tánh của mỗi chúng sanh trước kia đồng một bản thể với Phật Thánh song vì vọng niệm sai lầm, vô minh điên đảo mà thành ra chúng sanh và luân hồi sanh tử mãi mãi. Nên nay, hễ ai biết giác ngộ và y pháp tu hành đổi vọng tâm phiền não ra tánh Bồ Đề, sửa thân phàm phu ra thân Phật Thánh, tức chứng được Tam Thân bất hoại. (Tam thân gồm có: Thanh tịnh Pháp thân, Viên mãn Báo thân, Thiên bá ức Hóa thân). Bấy giờ chính mình tự thay hồn đổi xác cho mình rồi đấy. Trong Cửu Khúc, ông Ba Thới có câu:
“Hết tục rồi lại hóa tiên,
Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành”.
Nay Đức Thầy đã dạy rõ trong bài Hoài Cổ:
“Tính xong món nợ lần-khân,
Thoát vòng cương tỏa pháp-thân nhẹ nhàng”.
Nói tóm lại, trong ba cách thay hồn đổi xác vừa giải qua, tùy theo công năng tu tập cao thấp, sâu cạn của mỗi hành giả mà được thay đổi rất cân xứng.
Và hành giả tu tập đến đó sẽ được:
“Tiêu diêu Đạo đức luận bàn,
Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao”(Hoài Cổ)
ĐỨC NGỌC HOÀNG: Cũng gọi là Đức Ngọc Đế. Chỉ cho đấng Chủ tể thượng giới lẫn hạ giới. Theo Lão giáo thì quan niệm rằng: Đức Ngọc Hoàng (Thiên Hoàng,Thượng Đế) chưởng quản cõi trời và cõi chúng sanh. Luật thưởng phạt của Ngài rất công bằng, căn cứ vào định nghiệp nhân quả của mỗi chúng sanh mà phạt hay thưởng. Đức Thầy có cho biết:
“Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,
Đức Ngọc Đế xử phân cho chúng”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
Lúc ấy luật trời sẽ:
“Xử những kẻ hung hăng tồi tệ,
Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
THIÊN MÔN: là Cửa Trời. Đức Thầy có câu:“Thiên Hoàng mở cửa các lân”(Sấm Giảng, Q.3).
CHÁNH VĂN
65. Khuyên trai gái học theo Khổng-Mạnh,
Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.
Xem truyện thơ chẳng biết hổ-ngươi,
68. Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố.
Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ,
Cảnh Núi-Non nhiều thú dị-kỳ.
Nó trọng ai hiền-đức nhu- mì,
72. Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.
LƯỢC GIẢI (từ câu 65 tới câu 72):
-Theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân”, PGHH quan niệm rằng con người có vượt hơn người thường (siêu nhân) mới gọi là Phật Thánh. Cho nên Đức Thầy khuyên mọi người nên noi theo gương hạnh và lời chỉ giáo của các bậc Thánh Hiền (Khổng Mạnh) khi xưa để ăn ở đối xử cho tròn cái Đạo làm người. Đó là điều căn bản của mỗi tín đồ cần phải có.
-Sách sử đã ghi lại biết bao câu chuyện tốt đẹp hoặc xấu xa, thế mà con người thời nay chẳng biết xét soi trau sửa, lại đua đòi những thói trăng hoa, vô liêm bất nghĩa, như Lữ Bố và Điêu Thuyền thuở nọ.
-Đức Giáo Chủ còn cho biết, sau nầy đến thời kỳ thưởng phạt thì trên miền Bảy Núi sẽ có nhiều loài thú kỳ lạ trừng phạt kẻ bất trung bất nghĩa:
“Hổ lang ác thú muôn bầy,
Lớp bay lớp chạy sau nầy đa đoan.
Ai mà ăn ở nghinh ngang,
Đón đường nó bắt xé tan xác hồn”.
-Còn những người biết tỉnh ngộ tu hành, vẹn tròn trung hiếu tiết nghĩa thì có Phật Tiên Thần Thánh gia hộ an toàn.
CHÚ THÍCH :
KHỔNG: là Đức Khổng Tử. Ngài sanh vào ngày 27 tháng 8 năm Canh Tuất (551 TCN), thời Xuân Thu, năm thứ 21 đời Châu Linh Vương, năm 22 thời Tương Công nước Lỗ, vào khoảng cuối đời Hồng Bàng ở nước Việt Nam ta.
Quê Ngài ở làng Sương Bình, ấp Trâu, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, nước Lỗ (Trung Hoa). Cha Ngài là Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Trưng Tại (Nhan thị). Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người đời sau xưng tụng Ngài là Khổng Phu Tử. Xuất thân trong gia đình nghèo khó, mồ côi cha từ mới lên ba nên Ngài biết rất nhiều nghề, đảm đang tháo vác.
Ngài có tầm vóc cao lớn hơn người, môi trâu, tai cọp, vai uyên (chim uyên), lưng rùa, miệng rộng; sơn đình giữa thì thấp còn bốn phía thì cao . Ngài rất thông minh, học rộng thấy xa và có nhiều đức tánh thiện mỹ.
Lúc 50 tuổi, Ngài tầm ra chơn lý, bắt đầu hoạt động đạo nghĩa. Ngài làm quan nước Lỗ, từ chức Trung Đô Tể đến chức Nhiếp Chính Sự, hết lòng đem đạo đức dạy dân, xây dựng nên cảnh thanh bình trật tự thời đó. Nền Khổng Giáo từ độ ấy lan dần khắp nước Lỗ. Nhưng về sau, vua Lỗ mắc mỹ nhân kế của vua Tề Cảnh Công, đam mê nữ sắc, Ngài Khổng Tử bỏ nước Lỗ đi du thuyết. Ngài châu du qua nhiều nước, như: Tấn, Tề, Thái, Tống, Sở, Vệ.v.v…Nhiều nhà Vua nghe Ngài thuyết giảng đạo lý đều kính phục, nhưng ít ai chịu khó áp dụng theo.
Trên con đường truyền Đạo, Ngài Khổng Tử đã gặp biết bao trở ngại, gian khổ: bị vây ở đất Khuông, bị mưu sát ở đất Tống, thầy trò lạc nhau ở đất Trịnh, bị cản trở ở đất Bồ, bị bao vây đến tuyệt lương ở đất Trần. Ngài nếm biết bao mùi vị đắng cay của dòng đời:“ Đời phong sương luống trải lắm gió mưa”(Cổ thi).
-Năm Ngài 68 tuổi, Quí Khang Tử ở nước Lỗ thay mặt vua Ai Công mời Ngài về. Thế là sau 13 năm lưu lạc phong trần, Ngài mới trở về cố quốc.
Ngài trở về Lỗ không phải dự Quốc chánh nữa mà là để truyền Đạo, bằng cách là mở trường dạy học trò, đồng thời Ngài khảo sát và san định kinh điển để lưu truyền dạy thế (Ngài khảo sát Kinh Lễ, Kinh Nhạc, san định Kinh Thi, Kinh Thư, khảo cứu Kinh Dịch, viết Kinh Xuân Thu, …).
-Đến năm Nhâm Tuất, một hôm Ngài dậy sớm, đi tiêu dao trước cửa nhà, tay chống gậy mà hát:
“Thái sơn kỳ đồi hồ ?
Lương mộc kỳ hoại hồ ?
Triết nhân kỳ nguy hồ ?
(Núi Thái sơn có lẽ đổ chăng ?
Cây lương mộc có lẽ nát chăng ?
Người triết nhân có lẽ nguy chăng ?)
Hát xong, Ngài ngồi dựa cửa. Lúc Tử Cống đến, Ngài hồi tưởng lời thân mẫu, kể lại:
– “Ta vừa gặp kỳ lân què chân. Khi mới thọ thai ta, mẹ ta nói có con kỳ lân xuất hiện, đi vào nhà nhả tờ ngọc thơ. Mẹ ta lấy dây chỉ đỏ cột lên sừng nó làm dấu. Nay nó què chân, đoàn thợ săn bắt đem về, ta đoán nhiệm vụ ta sắp hết”. Từ đó, Ngài thọ bịnh và đến ngày thứ 7 thì mất, hôm ấy, vào ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, thọ 73 tuổi, nhằm đời vua Kinh Vương nhà Châu thứ 41. Phần mộ Ngài nằm ở làng Khổng Lâm, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa).
Các môn đệ của Ngài gồm có:
–Tứ Phối, cũng gọi là Tứ Thánh, đó là:
1- Phục Thánh: Nhan Hồi tự Tử Uyên.
2- Tòng Thánh: Tăng Sâm tự Tử Dư.
3- Thuật Thánh: Khổng Cấp tự Tử Tư.
4- Á Thánh: Mạnh Kha tự Mạnh Tử.
–Thập nhị Triết (Mười hai nhà Hiền Triết).
–Thất thập nhị Hiền (72 ông Hiền).
–Tam thiên đồ đệ (3.000 học trò).
Đạo của Đức Khổng Tử có nhiều danh xưng: Khổng giáo, Nho giáo hay Thánh giáo…Giáo thuyết gồm có: Ngũ Kinh và Tứ Truyện. (Ngũ Kinh là Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Xuân Thu. Tứ Truyện là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử). Tôn chỉ gồm 8 chữ:“Hiếu, Đễ, Trung, Thứ, Tu, Tề, Trị, Bình”. Mục đích là dạy người tu tròn Nhân Đạo để đạt đến bậc Thánh Triết, hiền nhân quân tử.
MẠNH: là Ngài Mạnh Tử, tức Á Thánh. Ông tên thật là Mạnh Kha, sanh vào ngày mùng 2 tháng Tư năm thứ tư đời Liệt Vương nhà Châu (372 TCN) ở đất Châu, tỉnh Sơn Đông (Trung Hoa). Thân phụ là Khích Công Nghi, hiền mẫu là Cù thị, thuộc dòng Công tộc Mạnh Tôn.
Ông mồ côi cha từ thuở bé, nhờ hiền mẫu thủ tiết, hết lòng chăm sóc dạy dỗ. Sợ con mình tập nhiễm theo nết xấu của những đứa trẻ ở chung quanh nên Bà phải dời nhà ba lần mới yên (có bài thơ kể như vầy):
“Tích xưa Mẹ Thánh huấn nhi,
Dọn nhằm chỗ ở dời đi ba lần.
Có khi trẻ chẳng ân cần,
Mình ngồi khung cửi cắt chân mà thề,
Từ sau cứ học một bề,
Phong làm Á Thánh thành nghề rất ngoan”.
Lớn lên, ông học với Thầy Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Đức Khổng Tử. Chẳng bao lâu ông thấu đạt thâm ý của Đạo Thánh và có tài hùng biện, đi du thuyết qua các nước Tề, Tống, Đằng, Lương…để quảng bá Đạo Thánh hiền, nhưng các vua chúa thời Chiến Quốc mãi lo chiến tranh giành giựt, ít ai để ý đến việc Nhân nghĩa. Tuy nhiên, ông là người có công lớn trong nền Nho giáo, bởi tài hùng biện đanh thép của ông làm cho nền Thánh giáo được phát triển lan rộng.
Khi trở về già, ông cùng các môn đệ ghi chép những lời của ông đã đối đáp với các nhà vua, hoặc các môn đồ, cùng những lời phê bình sự chênh lệch của các học thuyết khác, làm thành bộ sách gọi là Mạnh Tử, gồm có bảy thiên. Đây là một trong các bộ sách cốt yếu của Nho giáo, chẳng những có giá trị về tư tưởng mà còn cả về văn chương nữa, nên ông được người xưng tụng là Á Thánh. Mạnh Tử mất vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 26 đời Châu Noãn Vương (289 TCN), thọ được 83 tuổi.
SÁCH THÁNH HIỀN: (Xem chú thích chữ Lời Thánh Hiền nơi câu 23 trên).
ĐẠO LÀM NGƯỜI: Nghĩa của chữ “Nhân Đạo” tức mỗi người phải đối xử lẫn nhau cho được hài hòa tốt đẹp, nếp ăn thói ở đều biết tôn ti trật tự: Nam có Ngũ luân, Ngũ thường; Nữ có Tam tùng, Tứ đức. Trong bài “Luận Về Tam nghiệp”, Đức Thầy có dạy:“… Đạo của con người kêu bằng Đạo Nhân và nó cũng là một con đường, đi trúng thì sống, bước trật thì chết…”.
HỔ NGƯƠI: Mắc cỡ, trông thấy mà thẹn:“Hổ ngươi cáo bịnh xin về đã lâu”.(Lục Vân Tiên)
ĐIÊU THUYỀN LỮ BỐ: Điêu Thuyền là tên cô gái có nhan sắc tuyệt vời, con nuôi của Vương Doãn (quan Tư Đồ nhà Hán đời Tam Quốc bên Trung Hoa); còn Lữ Bố tự là Phụng Tiên, người ở đất Cửu Nguyên (Trung Hoa) cũng đời Tam Quốc. Lữ Bố là người võ dõng nhưng vô mưu và bất nghĩa. Lúc trước, Lữ Bố làm con nuôi của Đinh Nguyên, chống lại Đổng Trác, về sau lại giết Đinh Nguyên qua phò Đổng Trác (cũng làm con nuôi). Đổng Trác khi dụ được Lữ Bố liền mưu đồ đoạt ngôi nhà Hán.
Quan Tư Đồ Vương Doãn muốn cứu nguy vua Hán bèn thiết lập Liên hoàn kế (mỹ nhân): Ông hứa gả Điêu Thuyền cho Lữ Bố nhưng lại đem Điêu Thuyền dâng cho Đổng Trác trước. Kết quả y như dự định của Vương Doãn, vì quá đắm say sắc đẹp của Điêu Thuyền mà Lữ Bố quên nghĩa cha con, giết chết Đổng Trác để giành lại Điêu Thuyền.
Vậy, thói Điêu Thuyền Lữ Bố là thói vô nghĩa trăng hoa bất chánh, làm thương luân bại lý nước nhà. Thơ Lục Vân Tiên có câu:
“Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên,
Mà hòng đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi !”
MÃNH HỔ: Cọp dữ.
NHU MÌ: Mềm mỏng, chín chắn, ôn tồn ít nói. Đức Thầy từng dạy:
“Tu là tâm trí nhu mì,
Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong”. (Sấm Giảng, Q.3).
SÁT PHẠT: Đánh giết, chết chóc. Ví dụ: Sát phạt lẫn nhau.
BỘI CHA PHẢN CHÚA: Quên ơn tổ tiên cha mẹ và phụ bạc nghĩa quốc dân. Chỉ cho người bất trung, bất hiếu. Đức Thầy thường thống trách hạng người ấy:
“Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người đặng cá quên nôm.
Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
CHÁNH VĂN
73. Đến chừng đó thiên-la lưới bủa,
Mới biết rằng Trời Phật công-bằng.
Nếu dương trần sớm biết ăn-năn,
76. Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý.
Học tả-đạo làm điều tà-mị,
Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà.
Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha,
80. Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu.
Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu,
Học ai mà ngang-ngược nhiều lời.
Phụ mẹ cha khinh-dể Phật Trời.
84. Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục.
LƯỢC GIẢI (từ câu 73 tới câu 84):
-Đoạn nầy cho biết đến ngày chấm dứt buổi Hạ ngươn, luật trời thưởng phạt rất công minh, không một ai thoát lọt, dù là một việc rất nhỏ. Nếu chúng sanh nào sớm biết cải hối, tìm về chánh Đạo lo tu bồi đức hạnh thì sau nầy được hưởng hạnh phúc, thoát khỏi vòng lao khổ.
-Bằng ai cứ tiếp tục theo con đường tà Đạo, mê tín dị đoan, sát sanh hại vật để cúng tế tà quỉ, chạy theo bùa chú thính linh, âm thinh sắc tướng,…sẽ tự rước lấy mọi sự bi thảm. Chừng ấy, đừng trách Phật Tiên và Đức Thầy sao không mở lòng từ bi cứu độ !
-Đức Giáo Chủ cũng cho biết con người thời nay mãi đua đòi theo văn vật:“Rồi phụ phàng tục cổ nước nhà” và “Ham công danh quên chữ sanh thành, Mến phú quí quên câu dưỡng dục”.(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4). Công sanh dưỡng của cha mẹ thật sánh tày non biển, thế mà họ chẳng màng kể, lại còn khinh khi Trời Phật, nhạo báng Thần Tiên, thật là điều quá mê mờ tội lỗi.
CHÚ THÍCH :
THIÊN LA: Lưới trời, do chữ“Thiên la địa võng”. Nghĩa rộng là luật trời hay luật nhân quả. Ý nói người làm lành hay dữ đều có kết quả không hề sai chạy. Sách Thánh có câu:“Thiên võng khôi khôi phân khúc trực, Thần linh hích hích định khuy vinh”.(Lưới Trời lồng lộng chia ngay vạy, Thần linh tỏ xét việc đầy vơi). Lão Tử cũng nói:“Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”.(Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt). Đức Thầy nay cũng bảo:“Cả trời Nam lưới bủa thiên la”.(Nang Thơ Cẩm Tú) hoặc là:“Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi”.(Khuyến Thiện, Q.5)
ĂN NĂN: Nghĩa của chữ “Sám hối”, tức là ăn năn lỗi trước chừa bỏ lỗi sau. Kinh Trường A Hàm, Phật nói:“Ai biết ăn năn lỗi lầm thì người ấy được tiến hóa trong giáo pháp của ta”. Đức Thầy nay có câu:
“Chữ tự hối nào ai có lạ,
Là ăn năn cải sửa tâm lành”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
LAO LÝ: Lo lắng, sầu khổ khó nhọc, lao lung, tù tội.
TẢ ĐẠO: Cũng gọi là tà đạo hay ngoại đạo, tức là bất chánh, đường lối không chánh đáng, không đúng chơn lý, trái với chánh Đạo.
Khi xưa, Phật có di chúc cho các Tỳ Kheo 6 loại ngoại đạo:
1.-“Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ Ma Ba Tuần vào trong Đạo pháp Ta, ở chùa cạo đầu mang áo Phật, xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời, ăn thịt uống rượu, làm dơ bẩn Đạo Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ nhứt.
2.- Còn có người dắt vợ con vào chùa học theo tà thuật, để truyền lại cho đệ tử, ăn thịt, uống rượu cũng đi làm chay tụng kinh cho người. Đó là loại ngoại đạo thứ nhì.
3.- Lại có những người trên không có Thầy truyền, dưới không có Thầy chứng, bị ma quỉ ám ảnh mê muội, trí hiểu biết bậy bạ lại cho là thông minh, chẳng có công tu, tự xưng là thành đạo. Bên ngoài làm giống theo Phật, nhưng trong tâm tính việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ ba.
4.- Lại có người làm theo việc hữu tình, học pháp hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đuổi quỉ sai thần, lừa dối bá tánh, ác kiến càng nhiều, nên chánh kiến càng tiêu. Đó là ngoại đạo thứ tư.
5.- Lại có người theo việc tốt xấu, học chiếm quẻ, bàn việc kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điều họa phúc, dối chúng gạt dân, tiêu diệt chánh pháp của Phật. Đó là loại ngoại đạo thứ năm.
6.- Lại có người sửa soạn hình tướng, bụng trống lòng tự cao; không có tài năng mà tự cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ lại cho rằng mình đã chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình đã thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu, muối, trà, quả, tương, giấm; chấp theo tà tướng, dối gạt người thiếu trí. Chẳng cần xem Kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền. Không thọ trì giới luật, chẳng cần tìm sư học Đạo, dám đem cái thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng đi vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành, tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si. Đây là loại ngoại đạo thứ sáu.
Sáu hạng trên đây gọi là Lục sư ngoại đạo, tức là bọn ma Ba Tuần, đến đời Mạt pháp nó xen vào nền Đạo của Ta để phá hoại chánh pháp”.
TÀ MỊ: Dối trá, gian xảo, tà khúc.
DỊ ĐOAN: Dị là lạ; đoan là manh mối. Chỉ cho các tà đạo hay bày ra những điều mị dối lạ lùng để gạt gẫm người đời. Đức Thầy thường khuyến giáo:
“Giáo khuyên khắp hết đâu đâu,
Bớt điều mị dối mới hầu thấy ta.
Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”. (Sám Giảng.Q.3)
TINH TÀ: Tà ma quỉ quái. Những người mê tín dị đoan cho rằng: có thể dùng vật thực cúng tế Thần Thánh ma quỉ để cầu được hết bịnh. Đức Thầy bảo:“Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc”.(Thập ác/Ác sát sanh) Và:“Còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là tà thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta”.(Tám Điều Răn Cấm)
THIẾT THA:(Xem lại chú thích tại tr.179 Tập1/3).
NGHINH TÂN YỂM CỰU: Cũng gọi là yểm cựu nghinh tân. Có nghĩa chê dè cái cũ và đón tiếp cái mới. Ý nói người đời hay ham học đòi theo nếp sống mới, lối sống văn vật của Âu Tây, vội chê bai ruồng bỏ lễ nghi phong hóa của nước nhà. Đức Thầy từng than:
“Ôi ! đời yểm cựu nghinh tân,
Rùng rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên”.
(Thu Đã Cuối)
NGANG NGƯỢC: Ngang tàng ngược ngạo, vô nghĩa. Ví dụ: Ăn nói ngang ngược, tính khí ngang ngược.
KHINH DỂ: Cũng đọc là khi dể, tức là coi thường rẻ rúng.
CÔNG SANH DƯỠNG DỤC: Công ơn cha mẹ sanh con ra và nuôi con đến khôn lớn, nghĩa của chữ “Cúc dục”. Kinh Thi có câu:“Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao. Dục báo thâm ân hạo thiên võng cực”.(Cha mẹ sanh đẻ và nuôi ta khôn lớn, lòng thương cha mẹ dày công khó nhọc ! Muốn đáp ơn sâu như trời cao chẳng cùng).
Lại có “Cửu tự cù lao” (chín chữ cù lao): Sinh (sanh đẻ), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vuốt ve), Xúc (cho bú), Phục (săn sóc), Phúc (bảo vệ), Trưởng (nuôi cho lớn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom).
Bởi công ơn cha mẹ sâu dày như vậy, nên Đức Thầy thường nhắc nhở:
“Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương”.(Sa Đéc)
Hoặc là:
“Lo bề cúc dục cội thung,
Nghe lời thầy dạy việc chung của đời”.
(Viếng Làng Mỹ Hội Đông)
CHÁNH VĂN
85. Thương lê-thứ bày tường trong đục,
Mặc ý ai nghe phải thì làm.
Lời của người di-tịch Núi-Sam,
88. Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc.
Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
92. Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ.
Giả Quê Dốt khuyên người tỉnh-ngộ,
Giả Bán Buôn thức giấc người đời.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
96. Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo.
LƯỢC GIẢI (từ câu 85 tới câu 96) :
-Vì lòng quá thương xót sanh linh, Đức Giáo Chủ phân bày mọi việc thật hư, chơn giả cho chúng sanh suy nghiệm, nếu ai thấy đây là lẽ phải thì sớm thực hành theo, bằng không cũng mặc. Ngài còn cho mọi người được biết, những lời lẽ trong quyển “Kệ Dân” nầy là của Đức Phật Thầy Tây An thuở xưa, chớ chẳng phải lời của ai đâu muốn lường gạt dân chúng. Bởi trước kia Đức Phật Thầy viên tịch tại chùa Tây An Núi Sam (Châu Đốc) vào ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856) nên nói đến người di tịch núi Sam thì ai cũng biết là muốn nói đến Đức Phật Thầy Tây An.
-Song vì lòng từ bi, Ngài không nở an ngồi nơi xứ Phật, hưởng cảnh thanh nhàn tự tại, nên Ngài chuyển kiếp lại trần gian. Trong cuộc đi dạo Lục châu, Ngài chẳng nài gian khổ, hóa hiện đủ hạng người để thức tỉnh bá gia và cũng để cho chúng sanh hiểu rằng: hiện thời đã có Phật Tiên lâm phàm độ thế, hầu bỏ bớt tánh kiêu căng ngạo mạn.
CHÚ THÍCH :
BÀY TƯỜNG: Trình bày tường tận. Giải bày mọi sự việc rất rõ ràng.
TRONG ĐỤC: Thanh khiết và dơ bẩn. Ý nói phân tách hai sự việc: sạch dơ cao thấp, hư nên, tốt xấu, tà chánh v.v…
DI TỊCH: Di là dời đổi, tịch là cõi tịch tịnh an nhiên, không còn hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, tức là cõi Niết Bàn. Di tịch là một trong nhiều danh từ để chỉ cho nhà tu được chứng đắc đạo quả, khi mãn nguyện, bỏ xác vào cảnh Niết Bàn. Đồng với ý nghĩa nầy có nhiều từ như: Tịch diệt, nhập diệt, viên tịch hay di tịch v.v…
NÚI SAM: (Xem lại chú thích tại tr.194 Tập 1/3).
HUYỄN HOẶC: Huyễn là giả, hoặc là lầm. Huyễn hoặc là che mắt, đánh lừa làm mê loạn khiến người khác dễ lầm.
CẢNH THIÊN TRƯỚC: Cũng đọc là Thiên Trúc, tức là xứ Ấn Độ, văn học Tàu gọi Ấn Độ là Thiên Trước. Bởi Ấn Độ là nơi Đức Phật đản sanh và cũng là nơi phát xuất Đạo Phật, cho nên gọi Thiên Trước là xứ Phật (Tây Thiên). Vậy, cảnh Thiên Trước là chỉ cho cảnh Phật, Đức Thầy có câu:
“Bát Nhã chẳng đưa người tội ác,
Thuyền từ nào rước lại Tây Thiên”.
(Luận Việc Tu Hành)
NỒNG NẶC: cũng đọc là nồng nực. Tức là mùi hương xông lên nồng nặc. Ý chỉ cảnh Phật thanh khiết toàn những hương sen ngào ngạt.
VẠN DÂN: Muôn dân (con số cực nhiều). Ý chỉ chung tất cả mọi người.
TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ. Hiểu rõ những điều sai lầm từ trước mà khởi lòng tự giác tu hành theo đạo lý. Đức Thầy từng kêu gọi:
“Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.
(Đến Làng Nhơn Nghĩa)
CHÁNH VĂN
97. Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.
Nếu trẻ già ai biết thì dùng,
100. Chẳng có ép có nài bá-tánh.
Nghe Điên dạy sau này thơi-thảnh,
Đây chỉ đường Cực-Lạc vãng-sanh.
Đừng có ham lên mặt hùng-anh,
104. Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp.
Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp,
Ngày nay đà gặp dịp tu-hành.
Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,
108. Thì mới được sống coi Tiên-Thánh.
LƯỢC GIẢI (Từ câu 97 tới câu 108) :
-Đức Giáo Chủ khai sáng Đạo PGHH vào năm Kỷ Mão (1939). Lúc đầu có nhiều người không ưa, theo chế nhạo bươi móc đủ điều. Công việc khuyến tu của Ngài chẳng hề nài ép một ai:“Tu không tu cũng không mời thỉnh, Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4).
-Đối với những kẻ thường hay xưng hô lớn lối, khoe khoang tự đắc, Ngài luôn cảnh giác họ nếu còn quen tánh ấy e cho một ngày kia phải rơi vào Địa ngục mà chịu sự hành phạt khốc liệt, rất uổng cho một đời con người để phải sa đọa, thối hóa.
-Vậy ai là người nhận được lời kệ giảng của Ngài, hãy sớm lo tu niệm, vì trong đây Ngài đã vạch sẵn con đường vãng sanh Lạc quốc. Tức là Ngài đã dạy chỉ pháp môn Tịnh Độ. Nếu ai nhứt tâm niệm Phật, làm lành đúng theo phương pháp của Ngài chỉ dạy, tức là niệm Phật được rành thì chẳng những sẽ kiến diện Phật Tiên trong ngày Long Hoa Hội mà còn được vãng sanh Phật quốc, dứt nẻo luân hồi.
-Đối với chúng sanh thời Mạt pháp, đây là dịp may ít có:“Nếu để trễ chầy e chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”( Để Chơn Đất Bắc).
CHÚ THÍCH:
CỰC LẠC VÃNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.209 Tập 1/3).
LÊN MẶT: Ra vẻ kiêu hãnh, tự đắc, có thái độ như người ở địa vị cao.
HÙNG ANH: Cũng đọc là anh hùng, tức là bậc tài giỏi xuất chúng, nhưng chữ “lên mặt hùng anh” ở đây là chỉ cho những kẻ bất tài, lại hay xưng hô lớn lối, giả mạo ta đây:“Anh hùng giả danh, anh hùng rơm”(Tục Ngữ).
ĐỊA NGỤC: (Xem lại chú thích tại tr.94 Tập 1/3)
ĐẠO LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.128 Tập 1/3).
NHỨT TÂM: Một lòng, dốc hết tâm trí vào một việc, không hề phân chia tư tưởng.
Khi xưa, Đức Na Tiên nói với vua Di Lan Đà :“Nhà tu hành dùng sự nhứt tâm mà gom tư tưởng lại và dùng trí huệ mà cắt phiền não ái dục”. Bởi vậy, nhứt tâm là có tánh cách hiểu biết, mà có trí huệ là đoạn tuyệt và diệt sạch. Cho nên nói nhứt tâm là chủ của các đức hạnh, nhà tu trước hết phải nương mình trong sự nhứt tâm mới mong thấy được chơn lý.
Ông Sư Vãi Bán Khoai đã dạy:
“Ai mà giữ đặng nhứt tâm,
Cũng như ngọc báu đã cầm trong tay”.
Đức Thầy có câu:
“Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng”(Khuyền Thiện, Q.5)
NIỆM DI ĐÀ RÁN NIỆM CHO RÀNH: (Xem lại chú thích tại tr.113 Tập 1/3).
CHÁNH VĂN
109. Đức Minh-Chúa chẳng ai dám sánh,
Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ.
Bởi Võ-Vương đáng bực tu-mi,
112. Nay trở lại khác nào đời trước.
Kẻ gian-ác bị gươm ba thước,
Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ.
Được thảnh-thơi nhờ chữ Nam-Mô,
116. Khuyên bổn-đạo rán mà trì-chí.
LƯỢC GIẢI (từ câu 109 tới câu 116) :
-Đoạn nầy Đức Thầy nhắc lại thời mạt Thương xưa kia, bởi Trụ Vương quá nhu nhược tàn ác, đắm say tửu sắc, làm những việc càn bậy, không còn xứng đáng trị vì thiên hạ nữa, nên cơ luân chuyển đổi lại nhà Châu. Lúc ấy có tiếng chim Phụng Hoàng gáy trên núi Kỳ Châu, đó là điềm lành báo hiệu sẽ có Thánh Chúa ra đời.
-Bấy giờ Tây Châu nước Trung Hoa có cha con của Châu Võ Vương, vốn là người hiền đức, trị dân cả nước chẳng cần có đồ lao mà dân vẫn tuân theo răm rắp. Mọi hạnh phúc của Vua Quan toàn dân đều chung hưởng, xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ, nên cả 800 chư hầu đều mến đức theo về nhà Châu.
So lại thời nay cũng thế, chánh sách trị dân quá tàn ác dã man, sanh linh đồ thán, nạn chiến tranh chết chóc liên tiếp xảy ra khắp hoàn cầu. Cho nên sẽ có vị Thánh Chúa ra đời. Ngài có đủ đức hạnh, lòng thương dân như sông dài biển rộng. Ngài sẽ đem lại cuộc hòa bình vĩnh cửu cho vạn quốc chư bang. Điều nầy, Đức Giáo Chủ từng cho biết:“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng, Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”(Không Buồn Ngủ).
-Và trước khi ấy, những kẻ gian tà hung ác đều bị luật hình phân xử tại pháp trường. Còn những ai quyết tâm theo Đạo tu hành, kiên tâm trì chí, niệm Phật làm lành, tất được chung hưởng cảnh thanh bình an lạc tới đây. Đức Thầy đã cho biết trong Sám Giảng Q.3:
“Hiền lành chừng đó sum vầy,
Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
Đến đó Ta mới mừng cười,
Nhìn xem Ngọc Đế giữa Trời định phân.
Thiên Hoàng mở cửa Các Lân,
Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.
Mười cửa xem thấy ghê hồn,
Cho trần coi thử có mà hay không .
Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.
Ấy là đến lúc xuê-xang,
Tam Hoàng trở lại là đời Thượng ngươn”.
CHÚ THÍCH :
MINH CHÚA: (Xem lại chú thích tại tr.79 Tập 1/3).
MẠT THƯƠNG: Thời cùng cuối của nhà Thương bên Trung Hoa, tức là chỉ cho đời vua Trụ (1783-1122 TCN) (Xem thêm chú thích tại tr.172 Tập 1/3).
PHỤNG GÁY NON KỲ: Non Kỳ là do chữ “Kỳ Sơn” tức là núi Kỳ Châu (Trung Hoa) vào cuối đời nhà Thương sắp chuyển sang nhà Châu, người ta nghe tiếng chịm phụng (phượng hoàng, linh điểu) gáy trên núi Kỳ Châu, báo điềm sắp có Thánh chúa ra đời.
VÕ VƯƠNG: tức là Châu Võ Vương. Ông tên thật là Cơ Phát con thứ hai của Văn Vương đời nhà Châu. Khi Văn Vương lâm bịnh nặng kêu Cơ Phát lại dặn rằng:“Con hãy nhớ lời cha dạy: Thấy việc lành thì làm cho mau, xử việc phải chẳng nên lần lựa, tránh việc quấy đừng vương vấn. Ba điều ấy là sửa mình trị dân yêu nước”. Cơ Phát cúi lạy mà vâng lệnh. Khi Văn Vương qua đời, chư hầu và bá quan đồng tôn Cơ Phát lên nối ngôi nhà Châu, xưng là Châu Võ Vương, noi theo cha làm điều nhân đức, trị an một cõi, các trấn chư hầu đều phục. Võ Vương phong Tử Nha làm Thừa tướng và sau tôn lên hàng Thượng phụ. Khi Trụ Vương bạo ngược, 800 trấn chư hầu đồng phò Võ Vương hưng binh phạt Trụ. Võ Vương lập đàn bái tướng phong Tử Nha làm Nguyên soái điều khiển quân binh. Đạo binh nhân nghĩa đánh đâu thắng đó, tiến vào Trường An vây kín kinh đô, tướng nhà Thương tử trận gần hết. Trụ Vương túng thế phải ra trận, chúa tôi ấu đả trước ngọ môn. Võ Vương thấy vậy than rằng:“Bởi Thiên Tử vô đạo nên mới đến đỗi thế nầy, chúa tôi hỗn chiến với nhau còn chi là thể thống. Tuy bệ hạ bất chánh, mà phận mình là đạo tôi con, không lẽ quân thần mà giao chiến như vậy”. Lúc nầy, các chư hầu đồng rập nhau kéo đến đánh vua Trụ tưng bừng. Trụ Vương bại tẩu chạy về lầu Trích Tinh tự thiêu mà thác.
Chư hầu đồng tôn Võ Vương lên ngôi Thiên Tử, đổi nhà Thương làm nhà Châu. Võ Vương noi chí hướng của Văn Vương mà trị vì, nên thiên hạ âu ca, nhà nhà an lạc. Võ Vương ở ngôi được 7 năm, hưởng thọ 93 tuổi. Nhà Châu trị dân được 874 năm mới dứt.
TU MI: Râu và lông mày. Nghĩa rộng là chỉ cho bậc nam nhi (đàn ông): “Tu mi nam tử”. Đức Thầy có câu:
“Hiền thần sách sử nêu ghi,
Miễu son tạc để tu mi trung thần”(Sám Giảng, Q.3).
GƯƠM BA THƯỚC: Gươm ngắn để xử trảm những người tử tội.
PHÁP TRÀNG: Cũng đọc là pháp trường, tức là nơi hành hình những người bị kết án tử hình.
HUNG ĐỒ: Bọn người làm việc hung tàn bạo ác. Đức Thầy cho biết:
“Hung đồ với lũ dọc-ngang,
Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu”(Thiên Lý Ca).
NAM MÔ: (Xem lại chú thích tại tr.81 Tập 1/3 và nơi câu 47 trên
CHÁNH VĂN
117. Xưa Tây-Bá thất-niên Dũ-Lý,
Huống chi ta sao khỏi tiếng đời.
Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,
120. Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.
Ghét bạo chúa là xưa Trụ-Kiệt,
Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu.
Thương Minh-Vương bắt chước Thuấn-Nghiêu,
124. Lòng hiền đức nào ai có biết.
LƯỢC GIẢI (từ câu 117 tới câu 124):
-Đoạn giảng trên Đức Giáo Chủ cho biết Tây Bá Hầu (Văn Vương) xưa kia, được người đời tôn là Hiền Thánh, thế mà còn bị Trụ Vương bắt cầm tù tại Dũ Lý bảy năm. Huống chi công cuộc cứu đời của Ngài thời nay làm sao tránh khỏi sự kềm kẹp của kẻ cường quyền vô đạo và tiếng đời gièm pha biếm nhẻ.
-Nhìn lại chúng sanh đang lăn lóc trong bể trần thống khổ, hết nạn nầy tới ách kia không dứt, chẳng khác nào thời Kiệt, Trụ xưa kia dân chúng phải buồn than khóc hận, dưới chế độ cay nghiệt của hai nhà vua ấy. Bởi Kiệt, Trụ quá nhu nhược nên kẻ bị chết thiêu, người thì mất mạng; cơ đồ sự nghiệp ông cha về tay người khác và còn lưu tiếng cho muôn đời phỉ nhổ.
Nghĩ thương cho Đức Thánh Vương, là bậc thông minh hiền đức, noi gương Nghiêu, Thuấn tu thân lập hạnh, hầu:“Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng” cho nhân loại được hưởng nhờ.
CHÚ THÍCH :
TÂY BÁ: là Tây Bá Hầu. Tên thật ông là Cơ Xương, làm tôi vua Trụ (nhà Thương). Thuở ấy nước Trung Hoa chia làm 4 trấn chư hầu, mỗi trấn cai trị 200 nước nhỏ. Ông là người tài đức gồm đủ nên vua Trụ phong trấn giữ phương Tây (Tây Bá Hầu).
Bấy giờ Trụ Vương sủng ái Đắc Kỷ, nghe lời nàng làm điều trái lẽ: giết chết Khương Hoàng Hậu, lại sợ cha vợ là Khương Hoàng Sở báo thù, nên nghe lời Bí Trọng triệu bốn trấn chư hầu về Kinh giết đi, để trừ hậu hoạn.
Tây Bá được tin xủ quẻ biết đi chuyến nầy bị tù bảy năm. Khi vào đến Triều Ca, Bắc Bá Hầu vốn thuộc phe gian nịnh của Vu Hồn, Bí Trọng nên khỏi chết, còn Đông Bá Hầu và Nam Bá Hầu vì tánh cang cường, mắng Trụ Vương nên bị giết chết. Riêng Tây Bá Hầu, nhờ là người hiền đức và các quan hết lòng can gián mới được tha. Nhưng Trụ Vương chưa vừa ý, sai Vu Hồn Bí Trọng theo dò xét. Tây Bá trình thật câu chuyện chiếm quẻ, nên bị vua Trụ giam vào Dũ Lý.
Thời gian ở Dũ Lý, ông dạy dân lễ nghĩa và làm sách dịch dạy bói quẻ, nên dân chúng xa gần đều mến đức. Ngồi tù gần 7 năm, có con trưởng nam của ông là Bá Ấp Khảo đem báu vật trong nước dâng vua Trụ để cứu cha. (Báu vật gồm: 1. Xe thất hương, không cần người đẩy, muốn đi đâu cũng được. 2. Nệm tình tửu, có công giải rượu. 3. Bạch viên là con vượn biết nhịp và ca rất hay.)
Đắc Kỷ thấy Ấp Khảo đẹp trai nên sanh lòng tà dục, tâu vua cầm ông lại, lấy cớ học đờn để lả lơi trêu ghẹo. Song, Ấp Khảo lòng chánh trực, dùng lời can gián. Đắc Kỷ nổi giận tâu với vua Trụ: “Bá Ấp Khảo có tâm tà không thiệt ý dạy đờn…”Trụ Vương nghe theo, truyền giết Ấp Khảo và lấy thịt làm nhưn bánh bao, đem thử Tây Bá Hầu: “Nếu ông quả là bậc Thánh thì không bao giờ ăn thịt con, nên giết đi; bằng ăn thịt con, là người tầm thường, sẽ được tha về”.
Lúc đó Tây Bá biết trước, nên thương trách Ấp Khảo, sao không nghe lời cha dặn, để đưa tới tình trạng nầy, rốt lại ông phải nén lòng ăn thịt con để được tha. Khi đó, có Tán Nghi Sanh là quan của Tây Bá, đem vàng bạc hối lộ cho Vu Hồn Bí Trọng cứu được ông.
Về đến Tây Kỳ ông hết lòng dạy dỗ nhân dân, khiến trong nước mưa hòa gió thuận, nhà nhà đều an cư lạc nghiệp. Sau Văn Vương nghe tiếng Khương Thượng là bậc hiền tài, nên hai lần lên đến Bàn Khê rước ông về phong làm Thừa Tướng. Kế đó, vì Sùng Hầu Hổ quá tàn ác với lương dân nên Văn Vương cùng Khương Thượng cất quân sang đánh bắt được Hầu Hổ và giết đi.
Khi yên giặc, Văn Vương bắt đầu thọ bệnh rồi mất, nhằm tháng 11, niên hiệu 20 Trụ Vương, thọ 97 tuổi. Quần thần tôn Cơ Phát, con thứ của Văn Vương, lên nối ngôi, hiệu là Võ Vương và tôn Tử Nha lên hàng Thượng Phụ, cùng trị quốc.
BIỂN TRẦN: Trần là bụi. Ý nói cõi trần đầy bụi bặm nhớp nhơ đau khổ, sự đau khổ ấy không có ranh giới, mênh mông như bể cả. Đức Thầy có câu:
“Bể trần sóng cuộn lao xao,
Xông thuyền Bát nhã lướt vào một phen”(Tự Thán).
BẠO CHÚA: Vua hung bạo tàn ác.
TRỤ: (Xem lại chú thích tại tr.172 Tập 1/3)
KIỆT: Đời vua chót hết (thứ 17) của nhà Hạ (2205-1786 TCN). Vua Kiệt tên thật là Lý Quí, tục gọi là Hạ Kiệt, một ông vua có uy vũ, nhưng rất bạo ngược.
Lúc thế còn mạnh, vua Kiệt đem binh đánh họ Hữu Thị. Họ nầy thất thế phải dâng nàng Muội Hỷ để cầu hòa. Từ ngày được mỹ nhân, vua Kiệt đâm ra sủng ái Muội Hỷ bỏ bê việc triều chánh. Kiệt còn nghe lời Muội Hỷ xuất công quỹ xây thành Huỳnh Cung Diêu Đài (cung cẩn ngọc huỳnh, đài cẩn ngọc diêu), lập vườn để vui chơi. Tôi trung thần là Long Bàn, hết lời can gián, vua Kiệt đã chẳng nghe, lại sát hại ông, khiến nhân dân ta thán căm hờn.
Sau có vua Thành Thang (vốn là Chư hầu của Kiệt), rước được bậc ẩn sĩ là ông Y Doãn ở đất Hữu Sằn về giúp. Thấy Y Doãn là bậc hiền tài, vua Thang đem dâng cho vua Kiệt, Kiệt lại không dùng. Ông Y Doãn trở về hợp với Chư hầu phò vua Thang đem quân vào đánh bắt được vua Kiệt, đày ra đất Nam Sào, nhà Hạ mất từ đó.
THUẤN: là Đế Thuấn (2256-2195 TCN). Ông họ Diêu, tên thật là Trùng Hoa, là cháu 8 đời của vua Huỳnh Đế, ông là một trang hiếu tử đứng đầu trong “Nhị thập tứ hiếu” của Tàu.
Nguyên mẹ ông mất sớm, cha là Cổ Tẩu tục huyền với bà vợ sau sanh ra Tượng.(Người đời thấy ông nghe lời vợ kế mà rắp tâm giết ông Thuấn, không xét được lẽ phải trái nên gọi là Cổ Tẩu, nghĩa là người mù mắt). Thuấn bị lời gièm pha của kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch là Tượng nên Cổ Tẩu không ưa ông Thuấn và định bụng giết đi; nhưng Thuấn lúc nào cũng hiếu với cha và thuận cùng em. Cổ Tẩu sai ông Thuấn lên Lịch sơn cày ruộng. Nơi nầy có tiếng là nhiều thú dữ nên cha ông muốn thú ăn thịt ông cho khuất mắt. Nhưng khi ông đến đó thì trời sai voi ra cày, chim chóc nhặt cỏ. Thấy không hại được, cha ông sai đi đánh cá ở hồ Lôi Trạch, nơi thường có sóng to, gió lớn, nhưng khi ông đến thì sóng lặng gió êm.
Vua Nghiêu nghe tiếng đại hiếu của ông, bèn vời về gả con và truyền ngôi báu. Vua Thuấn đóng đô ở Đồ Bản (Ngũ Hương, Hà Đông, tỉnh Sơn Tây) đổi Quốc hiệu là Hữu Ngu.
Khi lên ngôi, Vua Thuấn dùng bậc hiền tài để giúp nước. Sai con ông Cổn là Võ thay cha đi trị lụt; cử ông Tiết làm quan Tư Đồ, ông Hậu Tắc dạy dân cày cấy năm loại thóc; ông Cao Đàm làm quan Tư Pháp…Vua Thuấn còn đặt ra lệ tuần thú để xem xét quan lại và dân tình trong nước. Lập ra nhà dạy học Thường Tường. Nước Trung Hoa có trường học từ đời Đế Thuấn.
Suốt 61 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam Phong mà thiên hạ thái bình, vạn dân an cư lạc nghiệp. Sau thấy con là Thương Quân kém tài, nên Vua Thuấn truyền ngôi cho ông Võ lập ra nhà Hạ. Đế Thuấn đi tuần thú phương Nam tới đất Thương Ngô thì băng hà. Ở ngôi 61 năm, thọ được 101 tuổi.
NGHIÊU: là Đế Nghiêu (2357-2256TCN). Vốn là con của Đế Cốc, họ Y Kỳ, tên là Phòng Huân. Khi Đế Chí là huyền tôn của Hoàng Đế nhu nhược, thì các chư hầu đồng tôn Phòng Huân lên ngôi, đóng đô ở Bình Dương (nay thuộc Lâm Phần, Hà Đông, tỉnh Sơn Tây), lấy Quốc hiệu là Đào Đường. Vua chăm lo việc triều chính, đem nhân đức cai trị dân.
Nhân vua Hùng Vương thứ nhứt, nước Văn Lang (Việt Nam ngày nay), có bắt được con Thần Qui ba chân, trên lưng có khắc chữ “Khoa Đẩu”, ghi từ khai thiên lập địa tới giờ. Vua Hùng liền sai sứ giả đem dâng cho vua Nghiêu.(Quốc Sử Diễn Ca có câu:“Thần Qui đem tiến Đào Đường, Bắc Nam từ đấy giao bang là đầu”).Vua Nghiêu sai ông Hy Hòa căn cứ theo đó mà lập ra qui lịch, cho dân biết thời tiết làm ruộng. Trong qui lịch ấy, người ta lấy sự tròn khuyết của mặt trăng mà phân thành tháng năm và thời tiết, nên gọi là âm lịch. Những ngày đầu năm gọi là Tết Nguyên đán và danh từ ba ngày xuân nhựt có từ đấy. Lịch ấy tính ra mỗi năm có 12 tháng (360 ngày), cứ 3, 4 năm thì có 1 năm nhuần gồm 13 tháng để điều chỉnh. Những người làm lịch sau nầy đều coi theo đó mà làm.
Dân chúng sống thời vua Nghiêu rất sung sướng, nhà khỏi đóng cửa, tiền của rớt ngoài đường không ai lượm lấy…Khắp nước đều thanh bình an lạc nên giềng mối nước nhà được vững bền.
Tuy vua Nghiêu có tới 11 người con, 9 trai 2 gái, nhưng vua xét không người nào có đủ tài đức nối ngôi. Cho nên khi nghe ông Thuấn là bậc đại hiếu, liền triệu về gả con và truyền ngôi. Vua Nghiêu trị vì được 101 năm.
CHÁNH VĂN
125. Thương trần-thế kể sao cho xiết,
Mượn xác-trần bút tả ít hàng.
Kể rõ ràng những việc lầm-than,
128. Mặc làng xóm muốn nghe thì chép.
Việc tu-tỉnh Khùng không có ép,
Cho giấy vàng Điên chẳng có nài.
Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài,
132. Cho bổn-đạo giải khuây niệm Phật.
Việc xảy đến Đây truyền sự thật,
Ấy là lời của Phật giáo-khuyên.
Rán nghe lời của kẻ Khùng-Điên,
136. Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.
Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ-hành chẳng khá réo-kêu.
Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu,
140. Nói xiên-xỏ cũng không no béo.
LƯỢC GIẢI (từ câu 125 tới câu 140) :
-Vì lòng quá thương xót chúng dân, nên Đức Thầy mượn bút mực viết ra Sấm Giảng. Ngài kể rõ cảnh thống khổ, nhơn sanh phải gánh chịu sắp tới đây. Mặc tình bá tánh, ai nhận thức được lời Kệ giảng thì chép lấy mà học hỏi tu hành. Chớ việc trau thân gìn Đạo, trị bịnh cho chúng sanh, Ngài không nài ép một ai.
-Bởi lòng từ ái, Ngài chẳng ngại sự gian lao cực nhọc, miễn sao cho mọi người bớt thảm khổ, để lo làm lành niệm Phật. Còn những trạng huống sắp xảy ra tới đây, là do Đức Phật sắc lịnh cho Đức Thầy truyền ra cho người đời được biết, chớ chẳng phải tự Ngài bịa đặt hay nói ngoa một điều nào.
-Ngài luôn kêu gọi bá tánh, từ đây nên kính trọng Phật, Tiên, Thần, Thánh và ngăn chừa khẩu nghiệp, không nên trù rủa con cháu, hoặc kêu Thần Thánh mà sai khiến. Nhứt là nên bỏ dứt những lời thêm thừa huyễn hoặc, nói xiên mắng xéo chòm xóm. Vì các lời ấy chẳng đem lại bổ ích gì mà chính mình phải mang lấy khẩu nghiệp, tự chuốc lấy họa hại.
Như vào năm 1939, trong thời gian Đức Giáo Chủ truyền Đạo tại Tổ Đình PGHH, một hôm Ngài đang nói chuyện với khách bỗng dừng lại, đứng phắt dây, hướng mắt ra cửa, nói lớn: “Đem đi đâu vậy ! Đem về đi ! Mượn người ta bắt thì mang ơn người ta chớ !”
Lúc ấy chẳng ai hiểu Đức Thầy muốn nói gì, đồng ngó theo ra cửa, thì thấy một bà lão, từ trên chiếc xe lôi đang bước xuống, trên tay bồng em bé độ bảy, tám tuổi đau oặt òa oặt oại đi vào. Bà lão vừa đặt đứa bé xuống bộ ván ngựa, thì Đức Thầy cũng vừa lập lại câu nói lúc nãy:
-“Đem đi đâu vậy ! Đem về đi ! Mượn người ta bắt thì mang ơn người ta chớ !”
Bà lão tỏ vẻ lo lắng, giọng trầm buồn bạch với Ngài:
– Bạch Thầy ! Nhờ Thầy ra ơn từ bi cứu giúp giùm cháu tôi. Số là buổi chiều hôm qua dâu tôi là mẹ đứa nhỏ nầy, vì tức giận mà rủa nó nào “ôn dịch đại càn vật”, nào “ngũ hành bắt” đủ thứ…Một lát sau, nó phát bịnh tới giờ.
Bằng một giọng rầu rầu tha thiết, bà nói tiếp:
– Nó đau nặng quá Thầy, xin Thầy làm phước cứu giùm nó !.
Thật vậy, đứa bé kia chỉ còn chút hơi thở yếu ớt mà thôi. Nên chi, dầu nói vậy, nhưng Đức Thầy trót đã“Vì lòng từ ái chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa” nên Ngài phải:“…dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh, để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi…”, Ngài liền đi ngay lại bàn Phật sớt chung nước lã đem đưa bà lão, bảo cho đứa bé uống. Chẳng mấy chốc, đứa bé tỉnh lại như thường (trích dẫn theo Chuyện Bên Thầy).
Do đó, Đức Thầy mới khuyên:
“Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ hành chớ khá réo kêu”.
Và: “Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,
Mà kêu réo Đông Tây Nam Bắc”
(Khuyến Thiện, Q.5)
CHÚ THÍCH :
BÚT TẢ: Bút là cây viết, đồ dùng để biên chép. Tả là chép ra, vẽ ra, bày tỏ vấn đề gì bằng giấy mực sách vở.
LẦM THAN: (Xem lại chú thích tại tr.63 Tập 1/3).
CHO GIẤY VÀNG: Lúc Đức Thầy mới khai Đạo có trị bịnh cho bá tánh bằng cách cho họ uống giấy vàng hoặc đốt để vô chén nước, hay xé nhỏ vò tròn mà uống; thế mà vẫn hết bịnh mau lẹ hơn uống thuốc thường, như Ngài từng dạy:
“Có đeo bịnh tật vào thân,
Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô.
Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban”.
(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi)
CHẲNG NỆ VẮN DÀI: Không ngại sự cực khổ nhiều ít hay mau lâu. Sám Giảng, Q.3 có câu:
“Chữ tu hãy rán miệt mài,
Đừng kể vắn dài, đừng nệ mau lâu”.
TRỌNG KỈNH: Trọng vọng và tôn kính.
BỊNH ÔN DỊCH: Bệnh dịch tả, tức bịnh cảm gió ói ỉa, ai vướng vào bịnh nầy rất khó trị. Ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:“Chết mà chẳng thấy trối than, Là kêu ôn dịch nên mang khốn nghèo”. Đức Thầy bảo:
“Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
Chờ mãn phước ra tay bẻ họng”.
(Nang Thơ Cẩm Tú)
NGŨ HÀNH: Năm chất: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cũng gọi là năm vị thần xem xét và thưởng phạt việc tội phước của mọi người ở thế gian. Năm vị nầy có thể làm thiệt mạng những người hung ác, hoặc hết phước. Ông Sư Vãi có nói:“Chết mà còn nói còn cười, Là khi trong cõi Ngũ hành chẳng linh”.Và Ngài còn cho biết năm vị Ngũ Hành ấy là:
“Năm vị con vua Ngọc Hoàng,
Cho nên cõi thế coi mà năm cung.
Đại Giang là Liễu Lục Cung,
Coi về cõi nước chuyển luân cho trần.
Đại Lâm là Mộc Tinh Quân,
Coi trong thảo mộc vạn dân đều nhờ.
Đại Địa là vị Thổ Quan,
Coi về sở đất cho trần hạ đây.
Vạn dân gia đạo an hòa,
Hoặc là tử táng cũng là Thổ Quan.
Hỏa Tinh là vị lửa hồng,
Làm cho chín vật được trần độ thân.
Kim Tinh là vật báu châu,
Có diêm có mễ mà nuôi cõi trần.
Năm vị vốn thiệt năm Thần,
Chẳng thiếu nợ trần sao lại réo kêu ?”
-Ngũ Hành còn chỉ cho năm vị Phật Vương, chưởng quản việc sản sanh vật chất để nuôi dưỡng vạn loại chúng sanh, gồm có:
1- Đông Phương Giáp Ất Mộc Thanh Đế Chí Công Vương Phật.
2- Tây Phương Canh Tân Kim Bạch Đế Lãng Công Vương Phật.
3- Nam Phương Bính Đinh Hỏa Xích Đế Bửu Công Vương Phật.
4- Bắc Phương Nhâm Quí Thủy Hắc Đế Hóa Công Vương Phật.
5- Trung Ương Mồ Kỷ Thổ Huỳnh Đế Đường Công Vương Phật.
(Đức Phật Thầy Tây An khi xưa có truyền cho Đức Cố Quản cắm 5 cây thẻ quanh vùng Thất Sơn để bày trừ những cuộc trấn ếm của người Tàu, ý muốn ngăn chận các địa huyệt hiển linh của nước ta. Mỗi cây thẻ có đề theo ngũ hành là:
1- Tại làng Vĩnh Hanh, tỉnh Long Xuyên, phía trong Hang Tra, gọi là “Đông Phương Thanh Đế”.
2- Tại Ngã Bát, rạch Cái Dầu, làng Thạnh Mỹ Tây, Quận Châu Phú, Tỉnh Châu Đốc, gọi là “Bắc Phương Hắc Đế”.
3- Tại Bài Bài, trên bờ kinh Vĩnh Tế, xã Vĩnh Ngươn, Tỉnh Châu Đốc, gọi là “Tây Phương Bạch Đế”.
4- Tại Giồng Cát rừng Tràm, Hà Tiên, gọi là “Nam Phương Xích Đế”.
5- Tại phía trước núi Cấm, bên cạnh giếng nước mà Đức Phật Thầy cho đào khi trước, làng Tú Tề, Châu Đốc, gọi là Trung Ương Huỳnh Đế.)
-Ông Sư Vãi cũng bảo:
“Cõi trần mà đặng bình an,
Nhờ đâu mà lại chê hàng Ngũ Vương.
Hóa sanh vạn vật nuôi mình,
Cũng là trong hội Ngũ Vương vậy mà”.
DỆT THÊU: Nghĩa của chữ vọng ngữ. Ý nói đã dệt thành vải, còn thêu thêm hình nầy hình nọ cho nổi lên. Nên dệt thêu có nghĩa là đặt điều nói thêm. Đức Thầy từng bảo (trong quyển Khuyến Thiện):
“Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bào chữa”.
NÓI XIÊN NÓI XỎ: Nói xâm xỉ, châm chọc cách vách. Kích bác người nầy mà ám chỉ người khác. Mắng xiên mắng xéo người ta:
“Có người nói xéo nói xiên,
Chú muốn kiếm tiền nói gạt bá gia”(Sấm Giảng, Q.1).
CHÁNH VĂN
141. Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo,
Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè.
Mặc tình ai lên ngựa xuống xe,
144. Ta chẳng có ham nơi phú-quí..
Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ,
Đói với nghèo sắp đến bây giờ.
Vì thương đời nên Lão kể sơ,
148. Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc.
Nước Nam-Việt ai là thằng ngốc,
Người đời nay như ốc mượn hồn.
Chim tìm cây mới gọi chim khôn,
152. Người hiền-đức mới là người trí.
LƯỢC GIẢI (từ câu 141 tới câu 152) :
-Đoạn nầy ý nói cuộc đời Ngươn hạ sắp đến ngày biến hoại, nên Đức Thầy khuyên bá tánh, từ đây rán dè dặt trong việc xử thế, lo thi hành nhân nghĩa, tránh xa điều tội ác để khỏi vương mang khổ lụy sau nầy.
-Mặc cho người đời sống cảnh giàu sang đài các, riêng phần Ngài đã“Xa nơi tranh đấu lợi danh, Giữ lòng thanh tịnh tánh lành trau tria”(Khuyến Thiện, Q.5). Và Ngài kêu gọi mọi người không nên xa hoa phung phí, mà phải lo ăn cần ở kiệm, vì cảnh nghèo đói sẽ kề bên lưng: “Nghèo với đói từ đây sẽ biết, Hàng ngoại bang bố thiết ta hoài”.(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4).
-Bởi lòng từ bi bác ái, Ngài mới phân bày cho chúng dân được rõ; tâm địa của con người thời nay, quá mê si tội ác (lòng lang dạ thú); họ thực hiện bao mánh khoé gian hùng, điêu xảo để lừa bịp thế gian. Cho nên Đức Giáo Chủ khuyên mọi người, phải khôn ngoan sáng suốt trong mọi vấn đề, và cần phải:“Chọn nơi nào Đạo Chánh phượng thờ. Thì mới được thân sau cao quí”(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4).
CHÚ THÍCH :
NGƯƠN HẠ:(Xem lại chú thích tại tr.51 Tập 1/3)
MỎNG MẺO: (Xem chú thích chữ mỏng mảnh nơi câu 37 trên)
KIÊNG DÈ: Kiêng cữ, dè dặt kỹ lưỡng để tránh sự đụng chạm thất bại.
LÊN NGỰA XUỐNG XE: Do thành ngữ “Lên xe xuống ngựa”, ý chỉ sự sang trọng sung sướng, ăn xài xa xí. Đức Thầy thường khuyên:
“Đừng ham lên ngựa xuống xe,
Ăn xài phí của lụa the làm gì”.(Sám Giảng, Q.3)
PHÚ QUÍ: Giàu sang quyền quí, nơi sang trọng. Đức Thầy có câu (trong Luận Việc Tu Hành) :
“Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
Tham danh phế Đạo chí đâu yên”.
KIM CHỈ: (Xem lại chú thích tại tr.278 Tập 1/3)
LỜI CHÂU NGỌC: Cũng gọi là “lời vàng tiếng ngọc”, tức những lời khuyên dạy quí báu như vàng ngọc, đáng ghi nhớ; vâng lời. Truyện Kiều có câu:
“Nàng rằng: Vâng biết ý chàng,
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.
Trong bài Thiên Lý Ca, Đức Thầy bảo:
“Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,
Nay gặp người quái lạ tỏ phân”.
THẰNG NGỐC: Do chữ “ngốc tử”, có nghĩa người ngu, kẻ mê muội nhu nhược, không thấy xa hiểu rộng, chẳng hề nghĩ đến việc hư nên tốt xấu sau nầy.
ỐC MƯỢN HỒN: Một loại động vật ở dưới nước hoặc sống trên bãi cát, hình giống con tôm, đầu có đủ râu, mắt, càng, que xem rất kỳ dị; mình nó như cục thịt tròn và mềm, không có vỏ cứng, phải chui vào vỏ ốc mà trốn các thủy tộc khác. Người ta thường lầm là ốc, nhưng ruột nó lại là thứ khác.
Nghĩa bóng chỉ cho hai trường hợp:
1- Chỉ cho hạng người sống tạm bợ, bấp bênh chẳng có nhà cửa căn cứ.
2- Chỉ cho hạng “mặt người lòng thú”. Tuy thấy là con người, nhưng lòng dạ của họ vô cùng độc ác, gian xảo, thường lừa gạt ám hại kẻ hiền lương. Ông Sư Vãi Bán Khoai đã cho biết:“ Ác nhơn như ốc mượn hồn, Đừng thấy tu niệm ỷ khôn mà cười”.
CHIM TÌM CÂY MỚI GỌI CHIM KHÔN, NGƯỜI HIỀN ĐỨC MỚI LÀ NGƯỜI TRÍ: Hai câu nầy ý dạy: chim khôn thì tìm nơi có cây cao kín đáo mà đậu tất được sống an lành, khỏi bị bẫy dò của người ám hại, hoặc giả trời sắp giông bão, những chim khôn tự sớm tìm các rừng cây ẩn núp để khỏi bị tai nạn.
Còn người trí lúc nào cũng ăn ở hiền đức. Vì rằng: dù người có tài trí, uy dũng đến đâu mà thiếu đức thì chẳng thành công bền vững, như phe Hạng Võ chẳng hạn…Còn những người hiền đức luôn đặng vững bền và làm việc gì cũng được kết quả vẻ vang, như phía Hán Bái Công.
Cho nên, về mặt đời, ta nên chọn nơi nào có đức hạnh, có đường lối chánh nghĩa mà nương theo mới được yên lành bền vững:“Chim khôn lánh bẫy, lánh dò, Người khôn lánh chốn hồ đồ mới khôn”.(Tục ngữ). Hoặc là:“Chim khôn lựa cây lành mà đậu , Tôi hiền lựa chúa Thánh mà thờ”.
Về phương diện đạo đức thì người tu nên tìm con đường Chánh Đạo, có tôn chỉ, mục đích giải thoát mà qui y, mới gọi là người trí và sau nầy mới được liễu ngộ:
“Chim khôn lựa cây lành mà đậu,
Người khôn tìm chánh Đạo mà thờ.
Đừng học theo những thứ bá vơ,
Mới có thể gặp cơ tỏ ngộ”.
(Thần Cơ Thật Luận của Thanh Sĩ)
Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng ân cần dạy bảo:
“Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,
Đừng để lầm thợ khéo sơn da.
Thì sau nầy đến lúc phong ba,
Giông gió lớn cột kèo khỏi gãy”.
(Giác Mê Tâm Kệ, Q.4)
CHÁNH VĂN
153. Theo Phật-Giáo sau nầy cao-quí,
Được nhìn xem Ngọc-Đế xử phân.
Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,
156. Cảnh phú quí nhờ ơn Phật-Tổ.
Thấy bá-tánh nhiều điều tai-khổ,
Khùng thương dân nên phải hết lời.
Dạo Lục-Châu chẳng có nghỉ-ngơi,
160. Mà lê-thứ nào đâu có biết.
Dạy Đạo chánh vì thương Nam-Việt,
Ở Cao-Miên vì mến Tần-Hoàng.
Trở về Nam đặng có sửa-sang,
164. Cho thiện-tín đuợc rành chơn-lý.
LƯỢC GIẢI (từ câu 153 tới câu 164) :
-Đức Giáo Chủ cho biết nếu ai sớm quy y Phật Pháp, tu thân hành đạo thì sau nầy được hưởng nhiều điều quí báu: Nào được xem luật Trời thưởng phạt, nào thụ hưởng cảnh quí báu, do Phật Tổ ban cho. Bởi chừng đó:
“Phuơng Nam rạng ngọc chói lòa,
Lưu ly hổ phách mấy tòa đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh trực,
Quân cùng thần náo nức vui tươi,
Liên-hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương đống chào người chơn tu”.
(Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ)
-Thấy trong bá tánh đang gánh chịu biết bao tai khổ, nên Đức Thầy động lòng từ bi hết lời khuyên bảo. Ngài cũng đã vân du khắp sáu tỉnh miền Nam để tùy phương thức tỉnh, thế mà trong dân thứ có mấy ai được rõ.
-Thời gian trước đây, có lúc Ngài dạy Đạo cứu dân ở đất Miên, bởi thấy vua tôi nước nầy sắp vương cảnh khổ. Nay vì quá thương dân tộc Việt Nam nên Ngài trở lại đất nước nầy khai truyền chánh Đạo, hầu giúp cho thiện nam tín nữ rõ thông đường lối tu hành.
CHÚ THÍCH :
PHẬT GIÁO: Giáo lý nhà Phật, là Đạo Phật, một nền Đạo lớn trên thế giới, phát khởi từ cõi Ấn Độ, do Đức Thích Ca Mâu Ni làm Giáo Chủ. Đạo Phật dạy người tự tỉnh, tự tu, tự ngộ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, tức là thành Phật, nhằm mục đích giải khổ cho cả nhân loại chúng sanh.
Sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt thì Tổ Tổ tương truyền và các nhà tu đắc đạo tiếp tục quảng bá Đạo Phật khắp dân gian. Đạo Phật có trên 800 triệu tín đồ, chiếm tỷ số 1/3 dân số thế giới (thống kê cũ).
Đức Huỳnh Giáo Chủ được Đức Phật Tổ sắc chỉ lâm phàm xương minh Đạo Phật trong thời hiện đại:
“Ngọc tòa Phật Tổ nấy sai Ta,
Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà.
Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp,
Cho đời thấu tỏ Đạo Ma ha. (Tối Mùng Một).
NGỌC ĐẾ: (Xem chú thích nơi câu 63 trên)
BỆ NGỌC: Bệ là chỗ để thờ, hoặc chỗ để Vua ngồi, nơi ấy là bực cao, xây toàn bằng ngọc ngà châu báu. Đức Giáo Chủ có bảo (trong bài Thiên Lý Ca):
“Ai muốn gần bệ ngọc các lân,
Thì phải rán lập thân nuôi chí”.
CÁC LÂN: Các là gác, lầu, điện đền nội các, Lân là cửa, bực cửa; nói chung là điện đền lầu các. Ý chỉ chỗ cao sang quyền quí của Vua quan ở. Đức Thầy có câu:“Vào các ra đài tột bực giàu sang”(Sấm Giảng Q.1).
TAI KHỔ: Tai nạn khổ sở.
LỤC CHÂU: (Xem lại chú thích tại tr.91 Tập 1/3)
ĐẠO CHÁNH: Đây chỉ Đạo Phật, có nghĩa con đường chơn chánh, đúng chơn lý, có diệu năng đưa người giải thoát trần lao. Xưa, Đức Phật có di chúc cho các hàng đệ tử:“Qua đời sau nơi nào có Bát Chánh Đạo là Đạo chánh, bằng ngược lại là Đạo tà”. Đức Thầy viết:“Bác ái xả thân tầm Đạo chánh Độ người lao khổ dạ không phiền (Luận Việc Tu Hành)
CAO MIÊN: Cũng đọc là Cao Mên, tức là tên cũ của nước và dân tộc Cam Bốt, dịch âm chữ Khmer. Tên Cam-Bốt (Cambodge) thay cho tên “Cao Miên” (bị Quốc Hội nước ấy hủy bỏ).
TẦN HOÀNG: Ám chỉ Vua nước Cao Miên. Trong Giảng 11 hồi, ông Sư Vãi Bán Khoai có nói:
“Tôi đâu mà có yên thân,
Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.
Mến là mến Đức Hoàng Lân,
Thương là thương lấy vạn dân khổ nàn”.
Giờ đây Phật lại trở về Nam Việt:
“Bấy lâu Phật ở nước Tần,
Bây giờ Phật lại trở lần về Nam”.
THIỆN TÍN: (Xem từ Thiện Nam, Tín Nữ tại tr.61 Tập 1/3).
CHƠN LÝ: (Xem lại chú thích tại tr.171 Tập1/3)
CHÁNH VĂN
165. Trong Sáu-Tỉnh nhiều điều tà-mị,
Tu-hành mà vị-kỷ quá chừng.
Thì làm sao thoát khỏi trầm-luân,
168. Khuyên bổn-đạo rán tầm nẻo chánh.
Chừng lập Hội xác thân mới rảnh,
Nếu không thời khó thấy Phật Trời.
Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ-ngơi,
172. Đi chẳng kể tấm thân già cả.
Cảnh trần-thế mặc ai thong-thả,
Chớ lòng ta chẳng đắm hồng-trần.
Có thân thì rán giữ lấy thân,
176. Để đến việc ăn-năn chẳng kịp.
Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp,
Mến những ai biết kiếm Đạo-mầu.
Cảnh Tây-Thiên báu ngọc đầy lầu,
180. Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng.
LƯỢC GIẢI (từ câu 165 tới câu 180) :
-Đức Thầy nhận thấy khắp sáu tỉnh miền Nam có lắm kẻ tu hành không đúng cách, lòng tham lam vị ngã chưa diệt trừ, chỉ lo tạo những điều mị dối, để lợi dụng lòng tin tưởng của bá tánh. Nếu hành đạo như thế thì càng tu càng chìm trong luân hồi lục đạo, mong gì được thành quả giải thoát. Như trong bài“Luận Việc Tu Hành”, Ngài có viết:“Trần gian đầy dẫy người làm dối, Đạo cả nào trông đến cửa thiền”.
-Thế nên Đức Thầy hằng khuyên tín đồ từ đây hãy tìm con đường chơn chánh nương theo và cố gắng thực hành y chánh pháp, để được tự do giải thoát, có mặt trong ngày Long Hoa Hội.
-Đức Thầy chẳng nệ tấm thân lao nhọc, luôn dạo khắp đó đây để tùy phương giáo hóa mặc cho đời đua chen theo việc ăn chơi sung sướng, riêng lòng Ngài đã rứt sạch nghiệp duyên trần cấu, chỉ còn lo kêu gọi chúng dân:“Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ, Đến tội rồi mới hối muộn màng”.(Khuyến Thiện Q.5)
-Vậy ai là người đồng tâm hiệp chí, hãy sớm lo tu thân lập hạnh, để cùng thấu đạt lẽ diệu mầu của Đạo pháp. Kìa, nơi xứ Phật có biết bao nhiêu điều quí lạ: nào đền vàng điện ngọc, sen báu năm màu, nào chim kêu tiếng pháp, cây báu diễn lời lành; nhà cửa y phục, thức ăn, tiện nghi sử dụng, tất cả đều dành cho người chơn tu thọ hưởng.
CHÚ THÍCH:
SÁU TỈNH: Cũng gọi là Lục châu (Xem chú thích tại tr. 91 Tập 1/3).
TÀ MỊ: Gian xảo ton hót để lợi dụng. Đây chỉ cho kẻ giả dạng mang lốt tu hành bên ngoài, nhưng trong lòng luôn tính việc mê dối, không thật tâm. Đức Thầy có câu:“Bớt điều mị dối mới hầu thấy Ta”(Sấm Giảng, Q.3).
VỊ KỶ: (Xem lại chú thích tại tr.37 Tập 1/3).
TRẦM LUÂN: Chìm đắm, lăn lộn mãi trong sáu nẻo luân hồi. Đức Thầy từng nói:“Trầm luân oan nghiệt càng gây thêm hoài”.(Thu Đã Cuối).
NẺO CHÁNH: Nghĩa của chữ Chánh Đạo, tức là con đường ngay chánh.
ĐẮM: Chìm lắng dưới đáy nước, mê mết say sưa: chìm đắm, say đắm. Chữ đắm ở đây là chỉ cho sự quá say mê dục lạc trong cõi hồng trần – lòng Đức Thầy đã giác ngộ giải thoát nên chẳng còn đắm hồng trần. Ngài luôn nhắc nhở:
“Nếu mãi mê man mùi tục lụy,
Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.
(Thức Tỉnh Một Nữ Tín Đồ)
ĂN NĂN: (Xem lại chú thích tại tr.65 Tập 1/3 và nơi câu 75 trên).
TÂM ĐẦU Ý HIỆP: Vốn là một thành ngữ, có nghĩa lòng dạ và ý chí hiệp nhau giữa hai người hoặc nhiều người, những người đồng một chí hướng đạo đức với nhau.
ĐẠO MẦU: (Xem lại chú thích tại tr.280 Tập 1/3)
TÂY THIÊN: (Xem lại chú thích tại tr.138 Tập 1/3)
AN DƯỠNG: là An Dưỡng Quốc của Đức Phật A Di Đà, cũng gọi là Cõi Cực lạc (Xem chú thích chữ Cực Lạc nơi câu 28 trên).
CHÁNH VĂN
181. Kẻ hiền-đức sau nầy được hưởng,
Phép Thần-Linh của Đức Di-Đà.
Lại được thêm thoát khỏi Ta-Bà,
184. Khỏi luân chuyển trong vòng Lục Đạo.
Đức Diêm-Chúa yêu người hiền thảo,
Trọng những ai biết niệm Di-Đà.
Lại được gần Bệ-Ngọc Long-Xa,
188. Coi chư quốc tranh-giành châu-báu.
Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão,
Gái bé thơ biết trọng tuổi già.
Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà,
192. Thì được thấy Phật, Tiên, Thần, Thánh.
LƯỢC GIẢI (từ câu 181 tới câu 192) :
-Đoạn nầy ý nói những người hiền lương đức hạnh, sau nầy được Đức Phật A Di Đà dùng phép thần diệu cứu thoát mọi thống khổ nơi cõi Ta bà và tiếp dẫn linh hồn vãng sanh về Cực Lạc, hưởng quả an vui, chẳng còn bị luân hồi trong sáu nẻo.
-Đức Diêm Chúa lúc nào cũng kính yêu những kẻ biết ăn ở hiền từ, hiếu thảo và chuyên niệm “Lục Tự Di Đà”. Các người ấy sau nầy chẳng những chầu mừng Đức Thánh Vương mà còn đặng xem cảnh vạn quốc giựt giành châu báu tại miền Thất Sơn, như Đức Thầy hằng khuyên (trong bài Thiên Lý Ca):
“Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
Đặng xem chư quốc non Tần giành chia”.
Hoặc là:
“Phong trần dày dạn gió sương,
Chư bang ham báu hùng cường đua tranh.
Còn một cuộc chiếu manh giành xé,
Khắp hoàn cầu ó ré một nơi.
Dòm xem châu ngọc chiều mơi,
Sao đời không sớm tách rời cõi mê”.
(Để Chơn Đất Bắc)
-Đức Thầy cũng từng khuyến dạy trong hàng thiếu niên nam nữ, từ đây đối với bậc già cả tuổi tác phải biết kính trọng lễ phép và sớm thức tỉnh tu hành, diệt trừ lòng tà quấy hầu sau nầy kiến diện Phật Tiên Thần Thánh. Bởi lúc ấy sẽ có:“Phật Thánh Tiên Đông độ lướt sang, Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.(Nang Thơ Cẩm Tú)
CHÚ THÍCH :
PHÉP THẦN LINH: Pháp thần thông linh diệu. Nhà tu Phật khi trừ diệt sáu căn, không còn ô nhiễm sáu trần thì chứng đắc A La Hán, có đủ sáu phép thần thông (Nhân căn trần thanh tịnh, nhi đắc lục thông thị hiện giả dã). Còn khi chứng lên bực Bồ Tát và Như Lai thì pháp thần thông càng cao diệu hơn.
ĐỨC A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích tại tr.136 Tập 1/3).
TA BÀ: Cũng đọc là Sa-bà, Phạn ngữ (Scr.) là Saha, có nghĩa là kham nhẫn, đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy ( tức cõi chúng ta đang ở) kham chịu mọi điều thống khổ. Kinh Bi Hoa có nói:“Vân hà danh ta bà ? Thị như chúng sanh nhẫn thọ tam độc. Cập như phiền não, cố danh nhẫn độ”.(Thế nào gọi là Ta bà ? Bởi thế giới nầy, chúng sanh mắc phải ba điều độc hại tức tham, sân, si và các phiền não mà không hề chán mỏi, nên gọi là cõi kham nhẫn). Cổ đức đã bảo:
“Ta bà khổ, ta bà khổ,
Ta bà chi khổ, thùy năng sổ”.
Nay Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng luận giải ý nghĩa ấy trong hai câu giảng (trong quyển Khuyến Thiện):
“Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,
Có bao người xét cho tột chỗ”.
Lại nữa, trong cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm” có 20 từng thế giới. Mỗi thế giới là một cõi Phật; cõi Ta bà ở về từng thứ 13, gồm có nhiều thế giới nhỏ. Trong mỗi thế giới nhỏ, có ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới; có bốn châu: -Đông, Thắng thần châu, -Tây, Ngưu hóa châu, -Nam, Thiệm bộ châu, -Bắc, cu lư châu; và, có 1 núi Tu Di, 2 nhựt, nguyệt.
LUÂN CHUYỂN: Luân hồi chuyển kiếp. Ý nói chúng sanh ở kiếp nầy, nơi nầy chết đi, rồi đầu sanh qua kiếp khác, nơi khác. Cứ thế mà lăn lộn xoay vần mãi trong ba cõi sáu đường, không thoát ra được. Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:“Nhứt thiết chúng sanh từ vô thỉ dĩ lai, tánh tịnh minh thể, dụng chư vọng tưởng, thể tưởng bất chơn, cố hữu luân chuyển”.(Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sống chết trôi lăn đều do chỗ chẳng tỏ được cái chơn tâm thường trụ, thể tánh trong sạch, cứ dùng lầm theo vọng tưởng nên mới thành cái nghiệp sanh tử xoay vần mãi mãi).Trong Khuyến Thiện, Q.5) Đức Thầy có nói:
“Chuyển luân trong nhơn vật các loài,
Căn mờ ám làm điều dại dột”.
LỤC ĐẠO: Sáu đường luân hồi, gồm có: 1- Thiên đạo (cõi trời), 2- Nhân đạo (cõi người), 3- A Tu La đạo (cõi thần), 4- Súc sanh đạo (loài thú), 5- Ngạ quỉ đạo (cảnh giới ngạ quỉ), 6- Địa ngục đạo (cảnh giới địa ngục). Trong Tỉnh thế Ngộ chơn có câu:
“Lục đạo luân hồi vạn kiếp trầm,
Tử tế tư lương sanh tử khổ”.
(Sáu đường lăn lộn nhiều muôn kiếp,
Phải rán lo lường tránh chỗ nguy).
Đức Thầy cũng bảo:
“Gây ra lắm nợ phong trần,
Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.
(Cho Ông Cò Tàu Hảo)
DIÊM CHÚA: Cũng gọi là Diêm Vương hay Diêm Ma Pháp Vương. Có nghĩa là cõi Thiên Ma, tức cõi âm, cõi Địa ngục. Bởi Ngài thường khuyến khích kẻ làm lành, trừng trị kẻ tà ác, cho nên có danh xưng là Pháp Vương. Cũng có tên là Bình Đẳng Vương, vì Ngài luôn lấy lòng bình đẳng, công bằng mà xử trị kẻ tội nhơn, không hề tư vị một ai. Đức Thầy từng cho biết:
“Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng”.
(Đến Làng Nhơn Nghĩa)
HIỀN THẢO: (Xem lại chú thích nơi câu 21 trên)
NIỆM A DI ĐÀ: (Xem lại chú thích nơi câu 30 trên)
BỆ NGỌC: (Xem lại chú thích nơi câu 155 trên)
LONG XA: Xe rồng, tức xe của vua đi.
CHƯ QUỐC: Cũng đọc là “vạn quốc’, hay “chư bang”, tức chỉ chung cho các nước khắp trong thế giới. Đức Thầy có câu (bài Hoài Cổ):“Trông ngày chư quốc, chư hầu tỉnh tâm”.
CHÂU BÁU: Ngọc ngà, vàng bạc, kim cương…
KÍNH THÀNH: Tôn kính lễ độ và thành thật.
TRƯỞNG LÃO: Bậc già cả tuổi tác, các cụ bô lão. Đó là người đời, còn trong Đạo thì chữ Trưởng lão chỉ cho bậc tu hành giới hạnh tinh nghiêm, trí đức cao khiết.
TỈNH TÂM: (Xem lại chú thích tại tr.259 Tập 1/3)
LÒNG TÀ: Nghĩa của chữ “Tà tâm” tức lòng tà vạy, lòng nghĩ tưởng việc xằng xiêng tà khúc, mơ tính dục lạc. Đức Thầy có câu (GMTK, Q.4):
“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”.
CHÁNH VĂN
193. Việc hung-dữ hãy nên xa lánh,
Theo gương hiền trau sửa làm người.
Sau tà-tinh ăn sống nuốt tươi,
196. Mà bá-tánh chẳng lo cải thiện.
Miệng dương-thế hay bày nói huyễn,
Sách Thánh Hiền ghét kẻ nhiều lời.
Khuyên chúng-sanh niệm Phật coi đời,
200. Cõi Hạ-Giái rồng mây chơi giỡn.
Ở chòm-xóm đừng cho nhơ-bợn,
Rán giữ gìn phong-hóa nước nhà.
Câu tam-tùng bọn gái nước ta,
204. Chữ hiếu-nghĩa trẻ trai cho vẹn.
LƯỢC GIẢI (từ câu 193 tới câu 204) :
-Đoạn nầy Đức Thầy khuyên mọi người nên xa lánh các việc tà ác, và noi theo những tấm gương tốt lành mà trau sửa tâm mình cho sớm được trọn lành trọn sáng. Bởi sau nầy có nhiều tai nạn hãi hùng xảy đến cho nhân loại:
“Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà ma yêu quái chật đường.
Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương,
Làm sao cứu những người hung ác”(Kệ Dân, Q.2).
-Thế mà bá tánh cứ mãi chần chờ, chẳng sớm lo ăn năn hối cải, lại còn bày vẽ nhiều điều huyễn hoặc, che lấp đạo mầu. Các bậc Thánh Hiền thường răn trách hạng người ấy:“Bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sanh chi đức”(Chỉ nửa câu nói quấy cũng đủ làm giảm mất đức hạnh của mình). Đức Thầy còn khuyên dạy khắp chúng sanh chuyên tâm trì niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, để sau nầy được chứng kiến cảnh:“Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngát, Dưới Quân thần phụ tử khải hoàn ca (Bài Không Buồn Ngủ).
-Giờ đây, mọi người cần diệt bỏ lòng tham gian nhơ xấu, đối với chòm xóm cần được hòa vui chân thật. Bảo vệ nền phong hóa tốt đẹp của nước nhà để hoàn thành nhân đạo; bổn phận Nam nhi phải vẹn tròn câu hiếu nghĩa, còn Nữ giới cần xử trọn đạo tam tùng.
CHÚ THÍCH :
GƯƠNG HIỀN: (Xem lại chú thích chữ treo gương thiện tại tr.275 Tập 1/3)
TÀ TINH: (Xem lại chú thích tại tr.127 Tập 1/3)
BÁ TÁNH: Cũng gọi là bách tính. Có nghĩa là trăm họ. Ý chỉ chung tất cả mọi người.
CẢI THIỆN: Sửa đổi, thay đổi lại cho được hoàn thiện hơn, thí dụ: “Cải thiện mức sống của nhân dân”. Người tu thì cải thiện thân tâm cho được trọn lành trọn sáng.
NÓI HUYỄN: Nói không đúng sự thật; có nói không, không nói có, đặt điều nói láo:“Thêm thừa huyễn hoặc”, làm lật ngược mọi vấn đề, khiến cho người khác hiểu lầm. Lời nói huyễn là nghĩa của chữ vọng ngữ, nên sách Thánh thường răn dè:“Ngôn bất trúng lý, bất như bất ngôn; nhất ngôn bất trúng, thiên ngôn vô dụng”(Nói chẳng trúng lẽ, chẳng bằng không nói cho xong; bởi vì nói một lời chẳng trúng thì ngàn lời đều không dùng được). Đức Thầy đã răn cấm lời nói ấy (trong Khuyến Thiện, Q.5):
“Ác vọng ngữ thứ tư cũng cấm,
Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.
Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bào chữa”.
SÁCH THÁNH HIỀN:(Xem lại chú thích nơi câu 23 trên).
NHIỀU LỜI: Nghĩa của từ (đa ngôn) và cũng thuộc phần Ác vọng ngữ. Đức Thầy đã giải:“Khoe khoang tự đắc xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị”(Luận về Tam nghiệp/Ác vọng ngữ).
CHÚNG SANH: (Xem lại chú thích tại tr.40 Tập 1/3).
HẠ GIÁI: Cảnh giới trần gian của chúng ta đang sống, đối với thượng giới (cõi trời). Đức Thầy có câu:
“Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
Khắp hạ giái truyền khai Đạo pháp”.
(Diệu Pháp Quang Minh)
RỒNG MÂY: Nghĩa của chữ “Long Vân” tức chỉ cho Hội Long Vân, hội vui mừng cao quí. Đức Thầy cho biết (bài Diệu Pháp Quang Minh):
“Ai mà sửa đặng vuông tròn,
Long Vân đến hội lầu son dựa kề”.
NHƠ BỢN: Bòn chèn, xin xỏ, nhờ vả người khác. Đây chỉ cho sự tham gian lặt vặt trong chòm xóm, nên mang tiếng xấu xa, bị người đời chán ghét.
PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa. Cách thức ăn ở, lễ nghi, đối xử và nền văn hóa của một Quốc gia hay một dân tộc. Đức Thầy có câu:
“Tùy phong hóa dân sanh phù hạp,
Chấp bút thần tả ít bổn Kinh”.(Sám Giảng, Q.3)
TAM TÙNG: Ba điều nên theo của hàng phụ nữ, hay là ba phận sự chánh thức của người đàn bà đối với gia đình. Theo Nho giáo:“Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử”. Đức Thầy từng dạy:
“Nghe lời cha mẹ cân phân,
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy”.
Tam Tùng gồm có:
1.- Tùng phụ: người con gái lúc chưa chồng, còn nương theo cha mẹ, tức thời kỳ đáp ơn. Bổn phận con gái phải siêng năng vén khéo mọi công việc bếp núc, thêu thùa, may vá. Đối với ông bà cha mẹ đầy lòng hiếu thảo, với cô bác chòm xóm lễ độ khiêm cung; hòa hảo với anh chị, thương yêu dạy bảo em cháu. Đối bên ngoài, mọi việc chi đều phải thưa hỏi và đợi lịnh của cha mẹ, tự mình không nên quyết định lấy, chỉ trừ những việc thường thức trong nhà. Phải bảo trọng thân danh của cha mẹ và phẩm hạnh của mình. Không xem những loại sách bất chánh, cũng không gần kẻ lả lơi, tham gian hỗn láo để ngừa hại đến danh thể. Bỏ hẳn thói biếng lười mê ngủ, mà phải thức khuya dậy sớm để vẹn tròn bốn đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
2.- Tùng phu: Khi xuất giá theo chồng, nên biết tánh ý chồng để chìu theo. Chồng muốn làm việc đạo nghĩa chơn chánh nên nung đúc, còn muốn làm việc tà vạy, hư hèn thì khuyên ngăn. Phải sạch, khéo mọi công việc nội trợ, đừng để phiền đến chồng những việc quá nhỏ mọn.
Các việc có tánh cách hệ trọng trong gia đình không nên giấu chồng. Lúc chồng đi vắng, nếu có bạn của chồng đến thăm, phải giữ lễ độ, nghiêm chỉnh chào hỏi; hãy cẩn thận mọi cử chỉ: nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi đều phân biệt chủ khách rõ rệt. Không nên cười nói lả lơi suồng sã, khiến cho kẻ ngoài sanh nghi mà mang tiếng thất tiết.
3.- Tùng tử: Nếu gặp việc chẳng may, chồng chết sớm, vợ nên thủ tiết nuôi con cho đến khi nhắm mắt theo chồng; bằng không được cũng phải đợi mãn kỳ tang khó mới tái giá.
Phải tận tâm dạy dỗ con cho được khôn ngoan ngay thảo, đạo đức đối xử và có nghề nghiệp chân chánh sanh sống; nhứt là phải nêu gương tốt lành cho con bắt chước. Được như thế, mới xứng đáng là bậc mẹ hiền; trọn tiết với chồng và cũng chẳng lỗi việc khói hương với Tổ Tiên cha mẹ.
HIẾU NGHĨA: Hiếu hạnh và tiết nghĩa. Cũng giải là thích làm việc phải có ích lợi cho mọi người. Chữ “hiếu nghĩa” ở đây còn có nghĩa rộng là thi hành việc đạo nghĩa, tức đối xử cho tròn cái Đạo làm người. Như Đức Thầy từng dạy:“Hôm nay đã quy y đầu Phật tu niệm tại gia, ta hãy cố gắng vưng lời Thầy Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa. Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân, ta phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn”.(Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền – tr. 180 SGTVTB 2004).
|