Mục Lục
01 – Sấm-Giảng khuyên người đời tu-niệm (quyển 1)
02 – Kệ dân của người khùng (quyển 2)
03 – Sấm-giảng (quyển 3)
04 – Giác mê tâm kệ (quyển 4)
05 – Khuyến thiện của Ông Vô Danh Cư-Sĩ (quyển 5)
06 – Cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn-đạo (quyển 6)
07 – Những điều sơ-lược cần biết của kẻ tu hiền
08 – Luận về tam-nghiệp
09 – Luận về bát-chánh
10 – Cách thờ-phượng, hành-lễ và sự ăn ở của một tín-đồ PGHH
11 – Sự cúng lạy của người cư-sĩ tại gia
12 – Lời khuyên bổn-đạo
______________________________________________________________________________
01 – Sấm-Giảng khuyên người đời tu-niệm (quyển 1) [trở lại đầu trang]
SẤM GIẢNG KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM
* Đây là quyển thứ nhứt mà Đức
Thầy đã viết trong khoảng năm Kỷ
Mão (1939) tại Hòa Hảo (912 câu)
Hạ nguơn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.
Năm Mèo Kỷ-Mão rõ ràng,
Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi.
Ngồi buồn Điên tỏ một khi,
Bá gia khổ-não vậy thì từ đây.
Cơ trời thế cuộc đổi xây,
Điên mới theo Thầy xuống chốn phàm-gian.
Thấy đời ly-loạn bất an,
Khắp trong các nước nhộn-nhàng đao binh. [10]
Kẻ thời phụ nghĩa bố-kình,
Nguời thời trung-hiếu chẳng gìn vẹn hai.
Nên Điên khuyên-nhủ bằng nay,
Xin trong lê-thứ ngày rày tỉnh tâm.
Cơ thâm thì họa diệc thâm,
Nào trong sách sử có lầm ở đâu.
Người khôn nghe nói càng rầu,
Người ngu nghe nói ngửa đầu cười reo.
Rồi sau sẽ thấy hùm beo,
Khắp trong bá tánh hiểm-nghèo đáng thương. [20]
Điên này vưng lịnh Minh-Vương,
Với lịnh Phật đường đi xuống giảng dân.
Thấy trong bá tánh phàm trần,
Kẻ khinh người nhạo Thần Tiên quỉ tà.
Mặc ai bàn tán gần xa,
Quỉ của Phật Bà sai xuống cứu dân.
Kẻ xa thì mến đức-ân,
Làm cho người gần ganh-ghét khinh khi.
Nam mô, mô Phật từ-bi,
Miệng thì niệm Phật lòng thì tà-gian. [30]
Khắp trong bá-tánh trần-hoàn,
Cùng hết xóm làng đều bỉ người Điên.
Điên nầy xưa cũng như ai,
Vào các ra đài tột bực giàu-sang.
Nghĩ suy danh-lợi chẳng màng,
Bèn lên ẩn dật lâm san tu-trì.
Nhờ Trời may mắn một khi,
Thẩn-thơ lại gặp Đức Thầy Bửu-Sơn.
Cúi đầu Điên tỏ nguồn-cơn,
Động lòng bác-ái ra ơn dạy truyền. [40]
Thấy Điên tâm tánh quá thiềng,
Nội trong sáu khắc biết liền Thiên-cơ.
Chuyện nầy thôi nói sơ-sơ,
Để rộng thì giờ nói chuyện chơn-tu.
Dương-trần kẻ trí người ngu,
Ham võng ham dù danh-lợi xuê-xang.
Cờ đà đến nước bất an,
Chẳng lo tu niệm tham gian làm gì.
Phật, Trời thương kẻ nhu-mì,
Trọng cha, yêu Chúa kính vì Tổ-Tông. [50]
Ngồi buồn nói chuyện bông-lông,
Khắp trong trần-hạ máu hồng nhuộm rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,
Dậu Phật ra đời thế-giới bình-yên.
Điên này Điên của Thần-Tiên,
Ở trên Non Núi xuống miền Lục-Châu.
Đời còn chẳng có bao lâu,
Rán lo tu-niệm đặng chầu Phật-Tiên.
Thế-gian ít kẻ làm hiền,
Nhiều người tàn-bạo làm phiền Hoá-Công. [60]
Thế-gian chuyện có nói không,
Đến hội Mây-Rồng thân chẳng toàn thây.
Việc đời đến lúc cấn gay,
Mà cũng tối ngày nói xéo nói xiên.
Dương-trần tội ác liên miên,
Sau xuống huỳnh-tuyền Địa-ngục khó ra.
Điên này nói việc gần xa,
Đặng cho lê-thứ biết mà lo tu.
Tu cho qua cửa Diêm-phù,
Khỏi sa Địa-ngục ngao du Thiên-đài. [70]
Đường đời chẳng có bao dai,
Nên viết một bài cho bá-tánh coi.
Tuồng đời như pháo châm ngòi,
Bá-gia yên lặng mà coi Khùng nầy.
Khùng thời ba Tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy-đầy rõ việc Thiên-cơ.
Điên đây còn dại còn khờ,
Yên-lặng như tờ coi chúng làm sao.
Bá-gia kẻ thấp người cao,
Chừng thấy máu đào chúng mới chịu tu. [80]
Bây giờ giả dại giả ngu,
Cũng như Nhơn-Quí ở tù ngày xưa.
Lúc nầy kẻ ghét người ưa,
Bị Điên nói bừa những việc vừa qua.
Dương-trần biếm nhẻ gần xa,
Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm.
Ngồi buồn nhớ chuyện xa-xăm,
Dạo trong Bảy-Núi cười thầm sư-mang.
Nói rằng lòng chẳng ham sang,
Sao còn ham của thế-gian làm gì? [90]
Việc nầy thôi quá lạ kỳ,
Cũng trong Phật-Giáo sao thì chê khen.
Lúc này tâm trí rối beng,
Tiếng quyển tiếng kèn mặc ý bá-gia.
Hết gần rồi lại tới xa,
Dân-sự nhà nhà bàn tán cười chơi.
Chuyện này cũng lắm tuyệt-vời,
Giả như Hàn-Tín đợi thời lòn trôn.
Đến sau danh nổi như cồn,
Làm cho Hạng-Võ mất hồn mấy khi. [100]
Chuyện xưa thanh-sử còn ghi,
Khen anh Hàn-Tín vậy thì mưu cao.
Chuyện đời phải có trước sau,
Điên Khùng khờ dại mà cao tu hành.
Bá gia phải rán làm lành,
Niệm-Phật cho rành đặng thấy Thần-Tiên.
Thương đời trong dạ chẳng yên,
Khắp trong lê-thứ thảm phiền từ đây.
Ngày nay thế-cuộc đổi xây,
Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu cho. [110]
Mảng theo danh-lợi ốm-o,
Sẵn của hét hò đứa ở người ăn.
Đừng khi nhà lá một căn,
Mà biết niệm Phật sau bằng bạc muôn.
Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.
Cửu-Huyền Thất-Tổ chẳng thờ,
Để thờ những Đạo ngọn cờ trắng phau.
Dương-trần bụng dạ nhiều màu,
Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng nghĩ suy. [120]
Lời xưa người cổ còn ghi,
Những việc lạ kỳ nay có hay chưa?
Chưa là với kẻ chẳng ưa,
Chớ người tâm đạo biết thừa tới đâu.
Bá-gia mau kíp lo âu,
Để sau đối đầu chẳng đặng toàn thây.
Việc đời nói riết thêm nhây,
Nếu muốn làm Thầy phải khổ phải lao.
Mèo kêu bá tánh lao-xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê. [130]
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần-hạ nhiều bề gian-lao.
Khỉ kia cũng bị xáo-xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
Nói ra nước mắt rưng-rưng,
Điên biểu dân đừng làm dữ làm hung.
Việc đời nói chẳng có cùng,
Đến sau mới biết đây dùng kế hay.
Bây giờ mắc việc tà-tây,
Nên mới làm vầy cho khỏi ngại-nghi. [140]
Thiên cơ số mạng biết tri,
Mà sao chẳng chịu chạy đi cho rồi?
Những người giả đạo bồi-hồi,
Còn chi linh-thính mà ngồi mà nghe.
Việc đời như nước trong khe,
Nó tưởng đặt vè nói biếm người hung.
Điên này nối chí theo Khùng,
Như thể dây dùn đặng cứu bá-gia.
Sau nầy kẻ khóc người la,
Vài ba năm nữa biết mà tà-tinh. [150]
Điên biết chẳng lẽ làm thinh,
Nói cho bá-tánh mặc tình nghe không.
Việc Điên, Điên xử chưa xong,
Lục-Châu chưa giáp mà lòng ủ-ê.
Người nghe đạo lý thì mê,
Kẻ lại nhún trề nói: Lão kiếm cơm.
Thấy nghèo coi thể rác-rơm,
Rồi sau mới biết rác-rơm của Trời.
Vì Điên chưa đến cái thời,
Nên còn ẩn dạng cho người cười chê. [160]
Từ đây sắp đến thảm-thê,
Con lìa cha mẹ, vợ kia xa chồng.
Tới chừng đến việc ngóng-trông,
Trách rằng Trời Phật không lòng từ-bi.
Di-Đà lục tự rán ghi,
Niệm cho tà-quỉ vậy thì dang ra.
Khuyên đừng xài phí xa-hoa,
Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu.
Đừng khinh những kẻ đui-mù,
Đến sau sẽ khổ gấp mười mù-đui. [170]
Đời nay xét tới xem lui,
Chừng gặp tuổi Mùi bá-tánh biết thân.
Tu-hành sau được đức-ân,
Nhờ Trời ban bố cho gần Phật Tiên.
Nói ra trong dạ chẳng yên,
Điên gay chèo quế dạo miền Lục-Châu.
Tới đâu thì cũng như đâu,
Thêm thảm thêm sầu lòng dạ người xưa.
Bá gia ai biết thì ưa,
Tôi chẳng nói thừa những việc Thiên-cơ. [180]
Khi già lúc lại trẻ thơ,
Giả quê giả dốt khắp trong thị thiềng.
Đi nhiều càng thảm càng phiền,
Lên doi xuống vịnh nào yên thân Già.
Tay chèo miệng lại hát ca,
Ca cho bá-tánh biết đời loạn-ly.
A-Di-Đà Phật từ bi,
Ở bên Thiên-Trước chứng tri lòng nầy.
Từ ngày thọ giáo với Thầy,
Dẹp lòng vị-kỷ đầy lòng yêu dân. [190]
Ngày nay chẳng kể tấm thân,
Miễn cho bá-tánh được gần Bồng-Lai.
Đời nầy vốn một lời hai,
Khắp trong trần-hạ mấy ai tu trì.
Đời nầy giành-giựt làm chi,
Tới việc ly-kỳ cũng thả trôi sông.
Thuyền đưa Tiên-cảnh Non-Bồng,
Mấy ai mà có thiềng lòng theo đây.
Cứ lo làm việc tà-tây,
Bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn. [200]
Chừng đau niệm Phật lăng-xăng,
Phật đâu chứng kịp lòng người ác-gian.
Thấy đời mê-muội lầm-than,
Ăn bạ nói càn tội-lỗi chỉn ghê.
Chữ tu không phải lời thề,
Mà không nhớ đến đặng kề Tiên-bang.
Nói nhiều trong dạ xốn-xang,
Cùng hết xóm làng tàn-ác nhiều hơn.
Thầy chùa như thể cây sơn,
Ngoài da coi chắc trong thời mối ăn. [210]
Buồn thay cho lũ ác-tăng,
Làm điều dối thế cho hư Đạo-mầu.
Di-Đà Phật-Tổ thêm rầu,
Giận trong tăng-chúng sao lừa dối dân.
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Tu như lối cũ mau gần Diêm-vương.
Bá-gia lầm lạc đáng thương,
Nên trước Phật đường thọ lãnh dạy dân.
Dương trần nhiều kẻ ham sân,
Cứ theo biếm nhẻ xa gần người Điên. [220]
Lòng buồn mượn lấy bút nghiên,
Viết cho trần hạ bớt phiền lo tu.
Thương đời chớ chẳng kiếm xu,
Buồn cho bá-tánh hết mù tới đui.
Có chi mà gọi rằng vui,
Khắp trong bá-tánh gặp hồi gian lao.
Từ đây hay ốm hay đau,
Rán tu đem được Phật vào trong tâm.
Lời hiền nói rõ họa thâm,
Đặng cho bá-tánh tỉnh tâm tu hành. [230]
Ngày nay Điên mở Đạo lành,
Khắp trong lê-thứ được rành đường tu.
Nay đà gần cuối mùa thu,
Hết ngu tới dại công-phu gần thành.
Xác trần đạo-lý chưa rành,
Mấy ai mà được lòng thành với Điên.
Điên này sẽ mở xích-xiềng,
Dắt-dìu bá tánh gần miền Tiên-bang.
Không ham danh-lợi giàu-sang,
Mong cho bá-tánh được nhàn tấm thân. [240]
Thường về chầu Phật tấu trần,
Cầu xin Phật-Tổ ban lần đức ơn.
Nay đà bày tỏ nguồn cơn,
Cho trong trần-hạ thiệt hơn tỏ tường.
Phật, Trời thấy khổ thời thương,
Muốn cho lê-thứ thường thường làm nhơn.
Đừng ham tranh-đấu thiệt hơn,
Tu niệm chớ sờn uổng lắm dân ôi!
Hồng-trần biển khổ thấy rồi,
Rán tu nhơn-đạo cho tròn mới hay. [250]
Đừng ham nói đắng nói cay,
Cay đắng sau nầy đau đớn, sầu-bi.
Tu hành tâm trí rán trì,
Sau nầy sẽ thấy việc gì trên mây.
Đừng làm tàn-ác ham gây,
Sẽ có người nầy cứu vớt giùm cho.
Dương-trần lắm chuyện đôi co,
Phải dẹp vị-kỷ mà lo tu hành.
Kệ kinh tưởng-niệm cho sành,
Ngày sau thấy Phật đành rành chẳng sai. [260]
Lúc nầy thế-giới bi-ai,
Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.
Mấy lời khuyên nhủ chẳng lầm,
Từ đây đạo hạnh được mầm thanh-cao.
Hồng-trần lao-khổ xiết bao,
Khuyên trong lê-thứ bước vào đường tu.
Xưa nay đạo-hạnh quá lu,
Ngày nay sáng tỏ đền bù ngày xưa.
Mặc tình kẻ ghét người ưa,
Điên chẳng nói thừa lại với thứ-dân. [270]
Quan-trường miệng nói vang rân,
Mà tâm dính chặt hồng-trần bụi nhơ.
Buồn đời nên mới làm thơ,
Cũng còn tai lấp mắt ngơ mới kỳ.
Người đời lòng dạ bất tri,
Trông cho làm bịnh dị-kỳ nó coi.
Dương-gian chậu úp được voi,
Giấu đầu rồi lại cũng lòi sau đuôi.
Nói nhiều mà dạ chẳng nguôi,
Việc tu bá-tánh bắn lùi như tôm. [280]
Tưởng Phật được lúc đầu hôm,
Đêm khuya muốn giựt nồi cơm của người.
Thế-gian nhiều việc nực cười,
Tu-hành chẳng chịu, lo cười lo khinh.
Người già ham muốn gái xinh,
Đến sau chẳng biết thân mình ra sao?
Xác thân cọp xé beo quào,
Còn người tàn bạo máu đào tuôn rơi.
Tu-hành hiền đức thảnh-thơi,
Ngay cha thảo Chúa, Phật Trời cứu cho. [290]
Bá gia hãy rán mà lo,
Kiếm Lão Đưa Đò nói chuyện huyền cơ.
Bấy lâu chẳng biết làm thơ,
Nay viết ít tờ trần-hạ tỉnh tâm.
Đến sau khổ-hạnh khỏi lâm,
Nhờ công tu-niệm âm-thầm quá hay.
Chừng nào chim nọ biếng bay,
Cá kia biếng lội khổ này mới yên.
Nhắc ra quá thảm quá phiền,
Bể khổ gần miền mà chẳng chịu tu. [300]
Ngọn đèn chơn lý hết lu,
Khắp trong lê-thứ ao tù từ đây.
Thấy trong thời-cuộc đổi xây,
Đời nay trở lại khác nào đời Thương.
Nhắc ra thêm ghét Trụ-Vương,
Ham mê Đắc-Kỷ là phường bội cha.
Hết gần Điên lại nói xa,
Nói cho bá-tánh biết mà người chi.
Lời lành khuyên hãy gắn-ghi.
Dương-trần phải rán tu-trì sớm khuya. [310]
Đừng ham làm chức nắc-nia,
Ngày sau như khoá không chìa dân ôi!
Tu hành như thể thả trôi,
Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm.
Mưu sâu thì họa cũng thâm,
Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề,
Lại thêm ác thú mãng-xà, rít to.
Bá-gia ai biết thì lo,
Gác tai gièm siểm đôi co ích gì! [320]
Hết đây rồi đến dị-kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết-tha.
Dân nay như thể không cha,
Chẳng ai dạy-dỗ thiệt là thảm-thương.
Thứ nầy đến thứ Minh-Vương,
Nơi chốn Phật đường mặt ngọc ủ-ê.
Cám thương trần-hạ nhiều bề,
Bởi chưng tàn-bạo khó kề Phật Tiên.
Chúng ham danh lợi điền-viên,
Ngày sau đến việc lụy-phiền suốt canh. [330]
Kệ-kinh tụng niệm đêm thanh,
Ấy là châu-ngọc để dành ngày sau.
Bây giờ chưa biết vàng thau,
Đời sau kính trọng người cao tu hành.
Nam-mô miệng niệm lòng lành,
Bá gia phải rán biết rành đường tu.
Thương ai ham võng ham dù,
Cũng như những kẻ đui mù đi đêm.
Khuyên đời như vá múc thêm,
Mảng lo tranh đoạt thù-hềm với nhau. [340]
Đến chừng có ốm có đau,
Vang mồm niệm Phật, Phật nào chứng cho.
Dương-trần tiếng nhỏ tiếng to,
Nói ngỗng nói cò đây cũng làm thinh.
Tưởng rằng thân nó là vinh,
Chẳng lo tu niệm cứ ghình với Điên.
Nói ra trong dạ chẳng yên,
Bây giờ nói chuyện cỡi thuyền khuyên dân.
Đêm ngày chẳng nại tấm thân,
Nắng mưa chẳng quản tảo-tần ai hay. [350]
Chừng sau đến hội Rồng-Mây,
Người đời mới biết Điên này là ai.
Lui thuyền chèo quế tay gay,
Thuyền đi nước ngược đến rày cù lao.
Xa xa chẳng biết làng nào,
Thiệt làng Long-Khánh ít người nào tu.
Tớ Thầy liền giả đui mù,
Bèn đi ca hát kiếm xu dương-trần.
Bá-gia tựu lại rần-rần,
Trong nửa ngày trần chẳng có đồng chi. [360]
Nực cười trần-hạ một khi,
Ở một đêm thì sáng lại qua sông.
Bình-minh vừa buổi chợ đông,
Bày trò bán thuốc hát ròng đời nay.
Cho thiên-hạ tựu đông vầy,
Rồi mới ra bài hát việc Thiên-cơ.
Tới đây bá-tánh làm ngơ,
Buồn cho lê thứ kịp giờ ra đi.
Lìa xa Hồng-Ngự một khi,
Thẳng đường trực chỉ Điên đi Tân-Thành. [370]
Tới đây ra mặt người rành,
Nói chuyện thiệt sành thông-lảu Đạo nho.
Nhiều người xúm lại đôi co,
Chê lão đưa đò mà biết việc chi.
Thấy đời động tánh từ-bi,
Điên chẳng bắt tì còn mách việc xa.
Khoan khoan chơn nọ bước ra,
Giáp rạch Cả-Cái rồi ra ngoài vàm.
Đoái nhìn mây nọ trắng lam,
Điên ra sức lực chèo chơi một giờ. [380]
Xa nhìn sương bạc mờ mờ,
Tân-An làng nọ dân nhờ bắp khoai.
Giả người bán cá bằng nay,
Dân chúng ngày rày xúm lại mua đông.
Tới lui giá cả vừa xong,
Điên cũng bằng lòng cân đủ cho dân.
Có người chẳng chịu ngang cân,
Bỏ thêm chẳng bớt mấy lần không thôi.
Nực cười trần-hạ lắm ôi!
Giảng cho bá-tánh một hồi quá lâu. [390]
Thân già thức suốt canh thâu,
Nói cho lê-thứ quày đầu mới thôi.
Nhiều người nghe hết phủi rồi,
Quày thuyền trở lại bồi-hồi sầu-bi.
Giả người tàn-tật một khi,
Xuống vàm kinh Xáng được thì chút vui.
Một người nhà lá hẩm hiu,
Mà biết đạo lý mời Cùi lên chơi.
Bàn qua kim-cổ một hồi,
Cùi xuống giữa vời Châu-Đốc thẳng xông. [400]
Đến nơi thiên-hạ còn đông,
Giả gái không chồng đi bán cau tươi.
Thấy dân ở chợ nực cười,
Xúm nhau trêu ghẹo đặng cười Gái Tơ.
Buồn đời lăng mạ ngẩn-ngơ,
Biến mất lên bờ liền giả cùi đui.
Phố phường nhiều kẻ tới lui,
Thấy kẻ Đui Cùi chẳng muốn ngó ngang.
Đời nay quý trọng người sang,
Giả ra gây lộn nói toàn tiếng Tây. [410]
Tây, Nam, Chà, Chệt, chú, thầy,
Nó thấy làm vầy chẳng bắt ngại nghi.
Xuống thuyền quày quả một khi,
Chèo lên Vĩnh-Tế vô thì núi Sam.
Đi ngang chẳng ghé chùa am,
Xuôi dòng núi Sập đặng làm người ngu.
Xem qua đầu tóc u-xù,
Cũng như người tội ở tù mới ra.
Chèo ghe rao việc gần xa,
Bồng-Lai Tiên-Cảnh ai mà đi không?[420]
Nhiều người tâm đạo ước mong,
Nếu tôi gặp được như rồng lên mây.
Ấy là tại lịnh Phương Tây,
Cho kẻ bạo tàn kiến thấy Thần Tiên.
Có ngưới nói xéo nói xiên,
Chú muốn kiếm tiền nói gạt bá gia.
Thoáng nghe lời nói thiết tha,
Rưng rưng nước mắt chèo về Mặc-Dưng.
Tay chèo miệng cũng rao chừng,
Đường đi tiên cảnh ai từng biết chưa?[430]
Khúc thời nhắc lại đời xưa,
Lúc chàng Lý-Phủ đổ thừa Trọng-Ngư.
Nhà anh có của tiền dư,
Sao chẳng hiền-từ thương-xót bá gia?
Bấy giờ gặp việc thiết-tha,
Bạc vàng có cứu anh mà hay không?
Hết tây Điên lại nói đông,
Có ai thức-tỉnh để lòng làm chi!
Mặc-Dưng mất dạng Từ-Bi,[440]
Thuyền đi trở ngược về thì Vàm-Nao.
Dòm xem thiên-hạ lao-xao,
Không ghé nhà nào cũng gọi vài câu.
Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm-sầu thiết-tha.
Chừng ấy nổi dậy phong-ba,
Có con nghiệt-thú nuốt mà người hung.
Đến chừng thú ấy phục-tùng,
Bá-gia mới biết người Khùng là ai.
Bây giờ phải chịu tiếng tai,
Giảng Đạo tối ngày mà chẳng ai nghe. [450]
Đời như màn nọ bằng the,
Hãy rán đọc vè của kẻ Khùng Điên.
Khỏi vàm Điên mới quày thuyền,
Xuống miền Cao-Lãnh lại phiền lòng thêm.
Tới đây ca hát ban đêm,
Ai có thù hềm chưởi mắng cũng cam.
Cho tiền cho bạc chẳng ham,
Quyết lòng dạy-dỗ dương-trần mà thôi.
Nghe rồi thì cũng phủi rồi,
Nào ai có biết đây là người chi. [460]
Trở về Phong-Mỹ một khi,
Thuyền đi một mạch tới thì Rạch-Chanh.
Ghe chèo khúc quẹo khúc quanh,
Ở đây có một người lành mà thôi.
Nhắc ra tâm trí bồi-hồi,
Khó đứng khôn ngồi thương xót bá-gia.
Kiến-Vàng làng nọ chẳng xa,
Kíp mau tới đó vậy mà thử coi.
Xứ này nhà cửa ít-oi,
Mà trong dân sự nhiều người chơn tu. [470]
Thấy người đói rách xin xu,
Ra tay cứu vớt đui mù chẳng chê.
Khỏi đây đến chỗ bộn-bề,
Rõ ràng Bến-Lức đã kề bên ghe.
Giả Người Tàn Tật đón xe,
Rồi lại nói vè ròng việc Thiên-cơ.
Hết vè rồi lại nói thơ,
Làm cho bá-tánh ngẩn-ngơ trong lòng.
Thơ vè Điên đã nói xong,
Đi luôn Ba-Cụm kẻo lòng ước-mơ. [480]
Tới đây dẹp hết vè thơ,
Giả Người Bán Mắm quá khờ quá quê.
Chợ này thiên-hạ bộn-bề,
Kẻ nhún người trề chê mắm chẳng ngon.
Bạn hàng tiếng nói quá dòn:
Giá nầy chẳng bán còn chờ chuyện chi?
Bưng thời kẻ níu người trì:
Ở đây không bán chị thì đi đâu?
Dứt lời rồi lại câu-mâu,[490]
Mắng: con đĩ chó khéo hầu làm khôn!
Muốn làm cho có người đồn,
Biến mất xác hồn cho chúng chỉn ghê.
Nói ra thêm thảm thêm thê,
Ông Lãnh dựa kề giả Bán Trầu Cau.
Bạn hàng xúm lại lao-xao:
Ông bán giá nào nói thử nghe coi?
Trầu thời kẻ móc người moi,
Còn cau bẻ giấu thấy lòi tánh tham.
Thấy già bán rẻ nó ham
Bị thêm quê dốt nó làm thẳng tay. [500]
Ghe người biến mất bằng nay,
Cho chúng biết tài của kẻ Thần Tiên.
Bến Thành đến đó đậu liền,
Gặp hai thằng lính tra liền thuế thân.
Tớ Thầy nói chuyện cân-phân:
Mới lỡ một lần xin cậu thứ-tha.
Hai người tôi ở phương xa,
Bởi chưng khổ-não mới là nổi trôi.
Lính nghe vừa dứt tiếng rồi,
Khoát nạt một hồi rồi lại bắt giam. [510]
Thấy đời trong dạ hết ham,
Ghe người biến mất coi làm chi đây.
Tức thời Điên giả làm thầy,
Đi coi đi bói khắp trong phố phường.
Có người tu niệm đáng thương,
Điên mới chỉ đường Tịnh-Độ vãng sanh.
Dạo cùng khắp cả Sài-Thành,
Khi ca khi lý nói rành Thiên-cơ.
Bá-gia bá-tánh làm ngơ,
Tưởng như những kẻ nói thơ kiếm tiền. [520]
Văn-minh trọng bạc trọng tiền,
Khôn-ngoan độc-ác làm phiền người xưa.
Mặc ai ghét ghét ưa ưa,
Chẳng dám nói bừa cho bá-tánh nghe.
Phiền-ba ngựa ngựa xe xe,
Điên giả người què Gia-Định thẳng xông.
Què này đường sá lảu-thông,
Khắp trong thiềng-thị rồi thì nhà-quê.
Kêu cơm bá tánh nghe ghê,
Thêm nói bộn-bề những việc về sau. [530]
Dương-trần bàn tán thấp cao,
Chẳng biết người nào rõ việc tiên-tri.
Giã từ Gia-Định một khi,
Thuyền loan trực chỉ đến thì Cần-Thơ.
Tới đây giả Kẻ Quá Khờ,
Vợ điên chồng lại đứng hờ một bên.
Phố-phường xóm dưới đầu trên,
Cùng người đi chợ xúm nhau reo cười.
Thị-thiềng hiền-đức được mười,
Phần nhiều xúm lại chê cười người điên. [540]
Vợ thời ca hát huyên-thiên,
Chồng chẳng có tiền lại quán xin cơm.
Bá gia coi thể rác-rơm,
Ai cũng sẵn hờm đặng có ghẹo chơi.
Điên mà ca hát việc đời,
Với việc hiện thời khổ não Âu-Châu.
Chạy cùng chẳng sót đâu đâu,
Lòng quá thảm sầu lìa lại Vĩnh-Long.
Chợ quê giảng dạy đã xong,[550]
Thuyền loan trực chỉ đến rày Bến-Tre.
Chợ nầy đậu tại nhà bè,
Giả Chị Bán Chè dạo khắp các nơi.
Giọng rao rặt tiếng kim thời,
Rước rước mời mời anh chị mua ăn.
Trẻ già qua lại lăng-xăng,
Nói nói rằng rằng những việc bướm-ong.
Gánh chè bán hết vừa xong,
Điên cũng nói ròng chuyện khổ về sau.
Nói rồi chơn bước mau mau,
Lìa xa thiềng-thị đến thì thôn-quê. [560]
Đi đâu cũng bị nhún trề,
Kẻ lại chưởi thề nói: lũ bá-vơ.
Thấy đời tai lấp mắt ngơ,
Lúc ở trên bờ khi lại đi ghe.
Dạo cùng khắp tỉnh Bến-Tre,
Đủ bực thơ vè lìa lại Trà-Vinh.
Tới đây bày đặt hát kình,
Đua nhau bán thuốc mặc tình mua không.
Nói ra những chuyện bông-lông,
Trách trong lê-thứ không lòng từ-bi. [570]
Gặp người đói khó khinh-khi,
Điền-viên sự sản ai thì làm cho.
Dạy rồi thuyền lại Mỹ-Tho,
Khuyên trong trần-hạ rán lo tu-trì.
Xưa nay không có mấy khi,
Dương-trần có Phật vậy thì xuống đây.
Chợ quê giáp hết thuyền quay,
Đi trở lộn về Ông-Chưởng giảng dân.
Quản chi nắng Sở mưa Tần,
Chèo xuôi chèo ngược mấy lần không thôi. [580]
Thảm thương bá-tánh lắm ôi!
Bồng-Lai Tiên-Cảnh rao rồi một khi.
Nếu ai rảnh việc thì đi,
Còn mắc nợ thì ở lại dương-gian.
Có người xưng hiệu ông Quan,
Tên thiệt Vân-Trường ở dưới dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ-xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu-niệm vậy mà,
Nói chi lớn tiếng người mà khinh-khi. [590]
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi Non Bồng.
Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,
Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.
Ngồi chơi đạo-lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo-lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày:
Lúa bay về núi dành rày ngày sau. [600]
Hỏi qua tu niệm âm-hao,
Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.
Buồn đời Điên mới bước ra,
Tay gay chèo quế dạo thì khắp nơi.
Đi hoài chẳng có nghỉ ngơi,
Miệng cũng rao mời Tiên-cảnh Bồng-Lai.
Có người xuống bến bằng nay,
Mách chơi ít tiếng người rày mạng vong.
Nhà ngươi thiệt chẳng có lòng:
Đòi đã hai lần sao chẳng chịu đi?[610]
Thương đời ta luống sầu-bi,
– Đò đi tới chốn ăn thì bao nhiêu?
Điên rằng tôi chẳng ham nhiều,
Bao nhiêu tự ý cho nhiều chẳng ham.
Điên nầy bụng chẳng có tham,
Ghe đã chở đầy chật nứt trong mui.
Già đây cũng chở cầu vui,
Vậy chú hãy ngồi ngay chỗ sau đây.
Thấy người lòng dạ tà-tây:
Thân tôi làm vầy ông chẳng cho vô?[620]
Trong mui đã mát lại khô,
Tôi có đủ tiền mà trả cho ông.
Trong mui dòm thấy trống không,
Bước nhầu vào đó máu hồng trào ra.
Cho người hung bạo biết Ta,
Thuyền Người biến mất vậy mà còn chi.
Trở lên Chợ-Mới một khi,
Chèo lên chèo xuống vậy thì cũng rao.
Năm xưa đây có máu đào,
Mà nay chưa có người nào chơn tu. [630]
Nào Điên có muốn kiếm xu,
Mà trong trần-hạ đui mù không hay.
Hỏi ông người ở đâu rày,
Trả lời rằng ở Non cày Vua Nghiêu.
Tới đây trong dạ buồn hiu,
Bỏ ghe Điên cũng đánh liều chưa thôi.
Giả ra một Kẻ Hàn Nồi,
Khắp trong hàng xóm đi rồi sạch trơn.
Tới đâu cũng tỏ thiệt hơn,
Nhà tôi vốn thiệt có đờn năm dây. [640]
Tôi còn mắc cái nợ nầy,
Nên mới làm vầy cho giải quả-căn.
Nhà tôi đâu phải khó-khăn,
Đem theo trong xách bạc hằng tám mươi.
Nhiều người nghe nói reo cười,
Thân tôi lao-lý anh cười tôi chi?
Giã từ Chợ-Mới một khi,
Thuyền đi xuôi ngược đến thì Ba-Răng.
Ít ai biết được đạo hằng,
Ghé am thầy pháp nói rằng lỡ chơn. [650]
Trước sau bày tỏ nguồn cơn,
Vì thương lê-thứ chi sờn lòng Đây.
Có người lối xóm muốn gây,
Xin sáu trái bắp liền quày xuống ghe.
Ghe Điên vốn thiệt ghe be,
Mà lại Điên nhè nước ngược thẳng xông.
Ra oai thuyền chạy như dông,
Người nhà xuống bến trong lòng ngại nghi.
Ông nầy chẳng biết người chi,
Chèo quế vậy thì mạnh bạo quá tay. [660]
Thần Tiên mà chẳng ai hay,
Cứ biếm nhẻ hoài buồn dạ Người Xưa.
Đời nay mỏng tợ màn thưa,
Khuyên trong lê-thứ chẳng thừa một câu.
Thân Nầy chẳng nệ mau lâu,
Miễn cho bá-tánh gặp chầu vinh-huê.
Thương trong trần-hạ thảm-thê,
Lao-khổ nhiều bề chớ chẳng còn vui,
Nhiều người nghèo khổ hẩm-hui,
Không đất cặm dùi mà chẳng ai thương. [670]
Con thuyền đương lướt gió sương,
Bỗng nghe tiếng khóc tư-lương ai-hoài.
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn.
Du-thần bày tỏ nguồn cơn:
Rằng người nghèo-khó đương hờn phận duyên.
Điên nghe vội-vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,
Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi. [680]
Rồi đi dạo xóm một khi,
Đi lên nhà thì giã gạo mà chơi.
Vào nhà nói chuyện một hơi,
Gặp người bán thuốc cũng thời ghé vô:
– Mua một ve uống hỡi cô,
Uống vô bổ khoẻ trị nhiều chứng phong.
Uống thì pha nước nóng trong,
Chớ đừng pha rượu nó hòng kỵ thai.
Hai thằng ở xóm bằng nay,
Nó nói ngày rày thuốc chẳng có hay. [690]
Người cha đi lại thấy rầy:
– Thiệt mấy đứa nầy cãi-cọ làm chi.
Bước ra nhà nọ một khi,
Đi lên đi xuống kiếm thì xe lôi.
Gặp xe chẳng có lên ngồi,
Chạy trước đi rồi ngừng lại chỗ kia.
Xóm nầy kẻ ghét người ưa,
Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.
Nhổ rồi lui tới lăng-xăng,
Liền bước xuống thuyền Thầy Tớ thả trôi. [700]
Vàm-Nao rày đã đến rồi,
Quày thuyền ghé lại bằng nay Chợ-Đình.
Hát hai câu hát huê-tình,
Đậu xem dân chúng Chợ-Đình làm sao.
Sáng ngày chợ nhóm lao-xao,
Giả Bận Áo Màu ai cũng dòm xem.
Mấy thằng trai trẻ thấy thèm,
Đứng xa quanh-quẩn nói gièm với nhau.
Đứa nầy nói để cho tao,
Đứa kia xạo-xự áo màu quá ngon. [710]
Nhắc ra động tấm lòng son,
Buồn cho lê-thứ sao còn ham vui.
Ở đây một buổi ghe lui,
Về trên Bảy-Núi ngùi-ngùi thương dân.
Thầy Trò chẳng nại tấm thân,
Rảo khắp Non Tần bận nữa thử coi.
Chơn-tu thì quá ít-oi,
Nhiều người ẩn-sĩ quá lòi tánh tham.
Đi lần ra đến núi Sam,
Đến nơi rảo khắp chùa am của người. [720]
Dạy rồi bắt quá tức cười,
Thầy tu nhiều kẻ biếng lười quá tay.
Trẻ già biến hóa ai hay,
Dạo trong Bảy-Núi chẳng nài công lao.
Rú-rừng lúc thấp lúc cao,
Giả ra Nghèo-Khó vào nhiều am-vân.
Tu hành nhiều kẻ tham sân,
Làm sao cho đặng mau gần Phật-Tiên.
Ai ai cũng cứ ham tiền,
Ấy là đem sợi xích-xiềng trói thân. [730]
Lìa xa Bảy-Núi lần lần,
Xuống thuyền trực chỉ lên gần Hà-Tiên.
Đến đây giả Kẻ Không Tiền,
Rảo khắp thị-thiềng xin-xỏ bá-gia.
Đi rồi cũng quá thiết-tha,
Trở về non cũ đặng mà dạo chơi.
Non Tiên gió mát thảnh-thơi,
Nhưng nhớ việc đời lụy ngọc nhỏ sa.
Xuống trần lúc hát lúc ca,
Mà trong lê-thứ có mà biết chi. [740]
Nam-mô hai chữ từ-bi,
Trần-hạ nói gì đây cũng làm thinh.
Tu thời nhàn hạ thân mình,
Phần Điên khuyên nhủ mặc tình ghét ưa.
Thiên-cơ ai dám nói thừa,
Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng.
Xuống thuyền chèo quế thung-dung,
Đi dạy đủ chỗ khắp cùng thử coi.
Rạch-Giá chợ nọ thoi-loi,
Gần nơi ven biển cá mòi nhiều hơn. [750]
Tới đây giả Kẻ Có Cơn,
Khi say khi tỉnh lúc hờn số căn.
Dương-trần đi lại lăng-xăng,
Chê chê nhạo nhạo cười rằng quân điên.
Ở đâu mà tới thị-thiềng,
Lính chẳng bắt xiềng nó lại bót đi.
Lòng thương vì tánh từ-bi,
Dạy-dỗ chuyện cùng mà chẳng ai nghe.
Dạy rồi Điên lại xuống ghe,
Long-Xuyên, Sa-Đéc nói ròng vè-thơ. [760]
Vợ chồng nghèo khổ bơ-vơ,
Ở nơi giữa chợ lại khờ lại quê.
Buồn trong lê thứ ủ-ê,
Sóc-Trăng chợ ấy thuyền kề đến nơi.
Đến đâu thì cũng tả-tơi,
Nói rõ việc đời sắp khổ sắp lao.
Thị-thiềng thiên hạ lao-xao,
Chẳng có người nào tu niệm hiền-lương.
Thấy trong trần-hạ thảm thương,
Đâu có biết đường chơn chánh mà đi. [770]
Lìa xa đô-thị một khi,
Thuyền-loan trực chỉ đến thì Bạc-Liêu.
Chợ nầy tàn ác quá nhiều,
Phố-phường dân Thổ dân Tiều nhiều hơn.
Đi cùng thành-thị ráo trơn,
Cà-Mau đến đó thiệt hơn tỏ bày.
Cho trong bá-tánh chợ nầy,
Rõ việc dẫy đầy lao-lý về sau.
Đường đi lao-khổ sá bao,
Miễn cho trần-hạ biết vào đường tu. [780]
Tu-hành đâu có tốn xu,
Mà sau thoát khỏi lao-tù thế-gian.
Thầy Trò lắm cảnh gian-nan,
Chừng nào hết khổ mới an tấm lòng.
Đằng-vân đến tỉnh Gò-Công,
Vì thương dân-thứ mới hòng đến đây.
Xưa kia bão-lụt tỉnh này,
Mà sau cảnh khổ xứ này gần hơn.
Yêu dân lòng nọ chẳng sờn,
Thầy hát Tớ đờn dạy cũng khắp nơi. [790]
Khỏi đây Bà-Rịa tách vời,
Đến đó vậy thời trời mới sáng ra.
Chợ này đông-đúc người ta,
Nhiều đuông chà-là lại với nho tươi.
Đến đây Thầy Tớ hoá mười,
Nói nói cười cười bán thuốc Sơn Đông.
Ai ai đều cũng ngóng trông,
Coi lũ khách nầy hát thuật làm sao.
Hát mà trong bụng xáo-xào,
Nói chuyện bên Tàu máu đổ tuôn rơi. [800]
Cả kêu dân-chúng hỡi ôi!
Sao không thức tỉnh việc đời gần bên.
Khổ đà đi đến như tên,
Rán lo tu niệm tìm nền vinh-hoa.
Vinh này của Đức Phật-Bà,
Của Ông Phật-Tổ ban mà cho dân.
Tu cho nhàn toại tấm thân,
Đừng làm tàn-ác xa lần Tiên bang.
Hát kêu bớ kẻ giàu sang,
Rán lo làm phước làm doan mới là. [810]
Đến lâm cảnh khổ có Ta,
Với lịnh Phật Bà cứu vớt giùm cho.
Tu hành phải rán trì mò,
Gặp Lão Đưa Đò đừng có khinh-khi.
Dạy rồi Thầy Tớ liền đi,
Biên-Hòa đến đó vậy thì xem qua.
Đến đây dạy-dỗ gần xa,
Khuyên trong bá tánh vậy mà tỉnh tâm.
Ngày nay gặp Bạn Tri-Âm,
Rán mà trì chí đặng tầm huyền-cơ. [820]
Tân-An dạy dỗ kịp giờ,
Chẳng dám chần chờ đi thẳng Tây-Ninh.
Tới đây vừa lúc bình minh,
Điên ra sức giảng mặc tình nghe không.
Giảng rồi Dầu-Một thẳng xông,
Thiềng-thị giáp vòng thứ chót là đây.
Thương dân giảng dạy dẫy-đầy,
Rảo khắp tối ngày chẳng có nghỉ chơn.
Nhiều người hung ác quá chừng,
Không biết đời khổ lo mừng lo vui. [830]
Nhắc ra dạ nọ nào nguôi,
Từ đây Lục-Tỉnh đui cùi thiếu chi.
Nói mà trong dạ sầu-bi,
Bá-gia chậm chậm khinh-khi Điên nầy.
Đừng ham nói nọ nói nầy,
Lặng yên coi thử Điên nầy là ai.
Cảm thương Ông Lão Bán Khoai,
Vì yêu dân-chúng chẳng nài nắng mưa.
Câu nầy nhắc chuyện năm xưa,
Khuyên trong trần-hạ hãy chừa lòng tham. [840]
Khùng thời quê ngụ núi Sam,
Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.
Vua Nghiêu xưa mở đất cày,
Ngày nay nhường lại cảnh nầy cho Điên.
Xuống trần dạy-dỗ huyên-thiên,
Dạy rồi thì lại thảm-phiền nhiều hơn.
Cầu xin Phật-Tổ ra ơn,
Lời Điên khuyên nhủ như đờn Bá-Nha.
Thị-thiềng khắp hết gần xa,
Từ đây sắp đến quê nhà Điên đi. [850]
Đừng thấy ngu dại mà khi,
Thầy thì Huệ-Lựu, Tớ thì Huệ-Tâm.
Đời cùng còn chẳng mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.
Khuyên trong lê-thứ trẻ già,
Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho.
Ấy là quí-báu thơm-tho,
Đừng ham gây-gổ nhỏ to làm gì. [860]
Con thì ăn ở nhu-mì,
Học theo luân-lý kính vì mẹ cha.
Sau này sấu bắt hùm tha,
Xử người tàn-bạo vậy mà tại đây.
Đời xưa quả-báo thì chầy,
Đời nay quả-báo một giây nhãn tiền.
Dương-trần phải rán làm hiền,
Đừng trọng bạc tiền bỏ nghĩa bỏ nhân.
Người hung phải sửa cái thân,
Từ đây có kẻ Du-Thần xét soi. [870]
Chuyện người chớ móc chớ moi,
Hãy treo gương thiện mà soi lấy mình.
Ai thương ai ghét mặc tình,
Phận mình cứ giữ tâm mình cho ngay.
Điên đây vưng lịnh Phương Tây,
Hầu hạ bên Thầy đặng cứu bá-gia.
Thấy đời lòng dạ tây-tà,
Cứ theo chế nhạo cười mà người Điên.
Ngồi buồn kể chuyện huyên-thiên,
Chẳng có ham tiền cũng bị ghét vơ. [880]
Viết cho bá-tánh ít tờ,
Đi làm ruộng rẫy bỏ hờ theo xem.
Thương người nghèo khổ lấm-lem,
Thấy cảnh sung-sướng nó thèm quá tay.
Ai mà biết đặng ngày mai,
Ngày nay yên-tịnh ngày mai thảm-sầu.
Từ rày gặp cảnh buồn rầu,
Cho người tàn-bạo cứng đầu khinh-khi.
Dương-trần nay đáng sầu-bi,
Nên Điên mới nói chuyện ni tỏ tường. [890]
Đêm ngày tưởng Phật cho thường,
Phải rán lo-lường kim-chỉ từ đây.
Thương đời Điên mới tỏ bày,
Dạy trong trần-hạ ngày rày rán nghe.
Đừng khi nhà lá chòi tre,
Nhà săng cột lớn bù-xè hay ăn.
Lúc này Điên mắc lăng-xăng,
Dương trần biết đặng đạo-hằng mới thôi.
Chẳng ham cúng kiếng chè xôi,
Phật Trời chẳng muốn điều tồi ấy đâu. [900]
Muốn cho dân hiểu Đạo-mầu,
Chớ không có muốn chùa lầu cho cao.
Bao nhiêu cũng biết vàng thau,
Dạy khôn trần-thế chớ nào dạy ngu.
Sáng ngày con chó sủa tru,
Chừng heo cắn ổ hiềm thù mới yên.
Đừng ham giành-giựt của tiền,
Người hung hay gọi kẻ hiền rằng ngu.
Nay Điên chỉ rõ đường tu,
Ấy là đủ việc tài bù cho dân.
Thôi thôi nói riết dần lân,
Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên. [912]
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
BỬU châu công luyện chốn non Tần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân.
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưỏng kẻ tròn ân.
—-oOo—-
02 – Kệ dân của người khùng (quyển 2) [trở lại đầu trang]
KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG
* Đây là quyển thứ nhì mà
Đức Thầy đã viết ngày 12
tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)
tại Hòa Hảo (476 câu)
Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương.
Chẳng qua là Nam-Việt vô vương,
Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết.
Bạc không cánh /đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.
Mới mấy năm sao quá hao-mòn,
Mùa-màng thất, đói đau không thuốc.
Thương hại bấy lê-dân đứt ruột,
Thảm vợ con đói rách đùm-đeo. [10]
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắt.
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
Đường vinh-nhục rủi may một lát.
Ai phú-quí vào đài ra các,
Ta Điên Khùng thương hết thế-trần.
Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần,
Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo. [20]
Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo,
Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào.
Lời Thánh Hiền để lại biết bao,
Sao trai gái chẳng coi mà sửa?
Đời tận thế mà còn lần-lựa,
Chẳng chịu mau cải dữ về lành.
Làm Phật-Nhi phải được lòng thành,
Thì mới đặng vãng-sanh Cực-Lạc.
Tương với muối cháo rau đạm bạc,
Nghèo lương hiền biết niệm Di-Đà. [30]
Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,
Lại được thấy cảnh Tiên nhàn-hạ.
Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật được Trời,
Coi phép lạ của Tiên của Thánh.
Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh,
Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.
Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn,
Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt. [40]
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma-Ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.
Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu.
Chữ Nam-Mô dẹp được lòng sầu,
Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.
Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh,
Thương những người đói-rách cơ-hàn. [50]
Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san,
Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh.
Cõi trần-thế hết suy tới thạnh,
Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn.
Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn,
Sau đắc đạo gặp điều cao-quí.
Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị,
Ta Điên Khùng mà tánh lương-hiền.
Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,
Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ. [60]
Sau lập Hội thì già hoá trẻ,
Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn.
Đức Ngọc-Hoàng mở cửa thiên-môn,
Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.
Khuyên trai gái học theo Khổng-Mạnh,
Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.
Xem truyện thơ chẳng biết hổ-ngươi,
Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố.
Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ,
Cảnh Núi-Non nhiều thú dị-kỳ. [70]
Nó trọng ai hiền-đức nhu- mì,
Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.
Đến chừng đó thiên-la lưới bủa,
Mới biết rằng Trời Phật công-bằng.
Nếu dương trần sớm biết ăn-năn,
Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý.
Học tả-đạo làm điều tà-mị,
Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà.
Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha,
Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu. [80]
Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu,
Học ai mà ngang-ngược nhiều lời.
Phụ mẹ cha khinh-dể Phật Trời.
Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục.
Thương lê-thứ bày tường trong đục,
Mặc ý ai nghe phải thì làm.
Lời của người di-tịch Núi-Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc.
Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần. [90]
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ.
Giả Quê Dốt khuyên người tỉnh-ngộ,
Giả Bán Buôn thức giấc người đời.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo.
Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.
Nếu trẻ già ai biết thì dùng,
Chẳng có ép có nài bá-tánh. [100]
Nghe Điên dạy sau này thơi-thảnh,
Đây chỉ đường Cực-Lạc vãng-sanh.
Đừng có ham lên mặt hùng-anh,
Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp.
Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp,
Ngày nay đà gặp dịp tu-hành.
Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,
Thì mới được sống coi Tiên-Thánh.
Đức Minh-Chúa chẳng ai dám sánh,
Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ. [110]
Bởi Võ-Vương đáng bực tu-mi,
Nay trở lại khác nào đời trước.
Kẻ gian-ác bị gươm ba thước,
Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ.
Được thảnh-thơi nhờ chữ Nam-Mô,
Khuyên bổn-đạo rán mà trì-chí.
Xưa Tây-Bá thất-niên Dũ-Lý,
Huống chi ta sao khỏi tiếng đời.
Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,
Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết. [120]
Ghét bạo chúa là xưa Trụ-Kiệt,
Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu.
Thương Minh-Vương bắt chước Thuấn-Nghiêu,
Lòng hiền đức nào ai có biết.
Thương trần-thế kể sao cho xiết,
Mượn xác-trần bút tả ít hàng.
Kể rõ ràng những việc lầm-than,
Mặc làng xóm muốn nghe thì chép.
Việc tu-tỉnh Khùng không có ép,
Cho giấy vàng Điên chẳng có nài. [130]
Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài,
Cho bổn-đạo giải khuây niệm Phật.
Việc xảy đến Đây truyền sự thật,
Ấy là lời của Phật giáo-khuyên.
Rán nghe lời của kẻ Khùng-Điên,
Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.
Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ-hành chẳng khá réo-kêu.
Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu,
Nói xiên-xỏ cũng không no béo. [140]
Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo,
Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè.
Mặc tình ai lên ngựa xuống xe,
Ta chẳng có ham nơi phú-quí.
Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ,
Đói với nghèo sắp đến bây giờ.
Vì thương đời nên Lão kể sơ,
Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc.
Nước Nam-Việt ai là thằng ngốc,
Người đời nay như ốc mượn hồn. [150]
Chim tìm cây mới gọi chim khôn,
Người hiền-đức mới là người trí.
Theo Phật-Giáo sau nầy cao-quí,
Được nhìn xem Ngọc-Đế xử phân.
Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,
Cảnh phú quí nhờ ơn Phật-Tổ.
Thấy bá-tánh nhiều điều tai-khổ,
Khùng thương dân nên phải hết lời.
Dạo Lục-Châu chẳng có nghỉ-ngơi,
Mà lê-thứ nào đâu có biết. [160]
Dạy Đạo chánh vì thương Nam-Việt,
Ở Cao-Miên vì mến Tần-Hoàng.
Trở về Nam đặng có sửa-sang,
Cho thiện-tín đuợc rành chơn-lý.
Trong Sáu-Tỉnh nhiều điều tà-mị,
Tu-hành mà vị-kỷ quá chừng.
Thì làm sao thoát khỏi trầm-luân,
Khuyên bổn-đạo rán tầm nẻo chánh.
Chừng lập Hội xác thân mới rảnh,
Nếu không thời khó thấy Phật Trời. [170]
Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ-ngơi,
Đi chẳng kể tấm thân già cả.
Cảnh trần-thế mặc ai thong-thả,
Chớ lòng ta chẳng đắm hồng-trần.
Có thân thì rán giữ lấy thân,
Để đến việc ăn-năn chẳng kịp.
Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp,
Mến những ai biết kiếm Đạo-mầu.
Cảnh Tây-Thiên báu ngọc đầy lầu,
Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng. [180]
Kẻ hiền-đức sau nầy được hưởng,
Phép Thần-Linh của Đức Di-Đà.
Lại được thêm thoát khỏi Ta-Bà,
Khỏi luân chuyển trong vòng Lục Đạo.
Đức Diêm-Chúa yêu người hiền thảo,
Trọng những ai biết niệm Di-Đà.
Lại được gần Bệ-Ngọc Long-Xa,
Coi chư quốc tranh-giành châu-báu.
Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão,
Gái bé thơ biết trọng tuổi già. [190]
Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà,
Thì được thấy Phật, Tiên, Thần, Thánh.
Việc hung-dữ hãy nên xa lánh,
Theo gương hiền trau sửa làm người.
Sau tà-tinh ăn sống nuốt tươi,
Mà bá-tánh chẳng lo cải thiện.
Miệng dương-thế hay bày nói huyễn,
Sách Thánh Hiền ghét kẻ nhiều lời.
Khuyên chúng-sanh niệm Phật coi đời,
Cõi Hạ-Giái rồng mây chơi giỡn. [200]
Ở chòm-xóm đừng cho nhơ-bợn,
Rán giữ gìn phong-hóa nước nhà.
Câu tam-tùng bọn gái nước ta,
Chữ hiếu-nghĩa trẻ trai cho vẹn.
Ghét những kẻ có ăn bỏn-sẻn,
Thương những người đói rách lương hiền.
Muốn tu-hành thì phải cần-chuyên,
Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi,
Kẻ phú-quí đừng vong cơm nguội.
Sau đói lòng chẳng có mà dùng. [210]
Ta yêu đời than-thở chẳng cùng,
Mà bá-tánh chẳng theo học hỏi.
A-Di-Đà nhìn xem khắp cõi,
Đặng trông chờ mong-mỏi chúng-sanh.
Hiện hào-quang ngũ sắc hiền lành,
Đặng tìm kiếm những người hiền-đức.
Kẻ tâm-trí mau mau tỉnh-thức,
Kiếm Đạo-mầu đặng có hưởng nhờ.
Chốn hồng-trần nhiều cảnh nhuốc-nhơ,
Rán hiểu rõ huyền-cơ mà tránh. [220]
Chốn tửu-điếm ta nên xa lánh,
Tứ-đổ-tường đừng có nhiễm vào.
Người tránh xa mới gọi trí cao,
Sa bốn vách mang điều nhơ-nhuốc.
Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,
Đức Di-Đà truyền mở Đạo lành.
Bởi vì Ngài thương xót chúng-sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.
Nên khổ-lao Khùng không có nại,
Miễn cho đời hiểu đặng Đạo-mầu. [230]
Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu,
Thì hãy dẹp tánh tình ích-kỷ.
Mau trở lại đừng theo tà-quỉ,
Tham, Sân, Si chớ để trong lòng.
Phải giữ lòng cho được sạch-trong,
Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ.
Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà-ma yêu-quái chật đường.
Chốn hồng-trần nhiều nỗi thảm-thương,
Làm sao cứu những người hung-ác. [240]
Khắp thế-giới cửa nhà tan-nát,
Cùng xóm làng thưa-thớt quạnh-hiu.
Bấy lâu nay nuôi duỡng chắt-chiu,
Nay tận-diệt lập đời trở lại.
Khắp lê-thứ biến vi thương-hải,
Dùng phép-mầu lập lại Thượng-Nguơn.
Việc Thiên-Cơ Khùng tỏ hết trơn,
Cho trần-hạ tường nơi lao-lý.
Lão nào có bày điều ma-mị,
Mà gạt-lường bổn-đạo chúng-sanh. [250]
Đức Minh-Vương ngự chốn Nam-Thành,
Đặng phân xử những người bội nghĩa.
Trung với hiếu ta nên trau-trỉa,
Hiền với lương bổn-đạo rèn lòng.
Thường nguyện-cầu siêu-độ Tổ-Tông,
Với bá-tánh vạn dân vô sự.
Đời Ngươn-Hạ nhiều người hung-dữ,
Nên xảy ra lắm sự tai-ương.
Đức Di-Đà xem thấy xót-thương,
Sai chư Phật xuống miền dương-thế. [260]
Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.
Cứu lương-hiền chẳng cứu người hung,
Kẻ gian-ác đến sau tiêu-diệt.
Nay trở lại như đời Trụ-Kiệt,
Hãy tu nhơn chớ có tranh-giành.
Tuy nghèo hèn mà chí cao-thanh,
Được hồi-phục nhờ ơn chư Phật.
Hãy thương-xót những người tàn-tật,
Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười. [270]
Trên Năm-Non rồng phụng tốt-tươi,
Miền Bảy-Núi mà sau báu-quí.
Mặc trai gái trẻ già có nghĩ,
Thì khoan cười tôi rất cám ơn.
Khùng ra đời truyền dạy thiệt hơn,
Chư bổn-đạo chớ nên khinh rẻ.
Nay Khùng đã hết già hoá trẻ,
Nên giữa đồng bỗng lại có sông.
Ở Tây-Phương chư Phật ngóng trông,
Chờ bá-tánh rủ nhau niệm Phật. [280]
Làm nhơn-ái ắt tiêu bịnh-tật,
Vậy hãy mau tầm Đạo Thích-Ca.
Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở trên Non-Núi.
Chúng đục-đẽo những cây với củi,
Đắp xi-măng sơn phết đặt tên.
Ngục A-Tỳ dựa kế một bên,
Chờ những kẻ tu hành giả-dối.
Khuyên sư-vãi mau mau cải-hối,
Làm vô-vi chánh Đạo mới mầu. [290]
Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Ngôi Tam-Bảo hãy thờ Trần-Đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình.
Khùng nói cho già trẻ làm tin,
Theo Lục-Tổ chớ theo Thần-Tú.
Khuyên bổn-đạo chớ nên mê ngủ,
Thức dậy tìm Đạo chánh của Khùng.
Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng,
Được sanh sống nhờ ơn Chín-Bệ. [300]
Hóa phép lạ biết bao mà kể,
Chín từng mây nhạc trổi tiêu-thiều.
Kẻ tà-gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời thượng-cổ.
Khùng vưng lịnh Tây-Phương Phật-Tổ,
Nên giáo-truyền khắp cả Nam-Kỳ.
Hội Long-Hoa chọn kẻ tu-mi,
Người hiền đức đặng phò chơn Chúa.
Khuyên những kẻ giàu sang có của,
Hãy mở lòng thương-xót dân nghèo. [310]
Cảnh vinh- hoa lại quá cheo-leo,
Nhà giàu có sau nhiều tai-ách.
Hỡi bá-tánh rừng sâu có mạch,
Tuy u-minh mà có đền vàng.
Lịnh Quan-Âm dạy biểu Khùng troàn,
Cho bổn-đạo rõ nguồn chơn-lý.
Lũ thầy-đám hay bày trò khỉ,
Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền.
Chốn Diêm-Đình ghi tội liên-miên,
Mà tăng-chúng nào đâu có rõ. [320]
Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,
Từ xưa nay có mấy ai thành?
Phật từ-bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền-lương nhơn-ái.
Xá với phướn là trò kỳ-quái,
Làm trai-đàn che miệng thế-gian.
Kẻ vinh-hoa phú-quí giàu sang,
Mướn tăng-chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá-tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn. [330]
Thấy lạc-lầm Đây động lòng son,
Khuyên bổn-đạo hãy nên tỉnh-ngộ.
Ở dương-thế tạo nhiều cảnh khổ,
Xuống huỳnh-tuyền Địa-Ngục khảo hình.
Tuy lưới Trời thưa rộng thinh-thinh,
Chớ chẳng lọt những người hung-ác.
Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
Quỉ Vô-Thường dắt xuống Diêm-Đình.
Sổ sách kia tội phước đinh-ninh,
Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ. [340]
Tìm Cực-Lạc, Đây rành đường ngõ,
Hãy mau-mau tu tỉnh mới mầu.
Tận thế-gian còn có bao lâu,
Mà chẳng chịu làm tròn nhân-đạo.
Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,
Mở lòng nhơn tiếp rước mới là.
Làm hiền-lành hơn tụng hơ-hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó-ré.
Đã chánh Đạo thêm còn sức khoẻ,
Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn. [350]
Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
Lúc sanh sống chớ nên phụ-bạc.
Nếu làm đám được về Cực-Lạc,
Thì giàu-sang được trọn hai bề.
Ỷ tước-quyền làm ác ê-hề,
Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót.
Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót,
Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành.
Đẩu với đờn, kèn, trống, nhịp sanh,
Làm ăn-rập đặng đòi cao giá. [360]
Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã,
Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi.
Những giấy-tiền vàng-bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
Xưa Thần-Tú bày điều tà-mị,
Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường.
Thấy chúng-sanh lầm lạc đáng thương,
Cõi Âm-Phủ đâu ăn của hối.
Đúc Phật lớn chùa cao bối-rối,
Mà làm cho Phật-Giáo suy đồi. [370]
Tu Vô-Vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng-sanh lo lót.
Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,
Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài.
Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
Cúng với lạy khó trừ cho đặng.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?
Lập trai đàn chạy-chọt lao xao,
Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật. [380]
Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,
Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan.
Rán giữ-gìn luân-lý tam cang,
Tròn đức-hạnh mới là báu-quí.
Nay gần đến long phi xà vĩ,
Cảnh gian-nan bá-tánh hầu kề.
Thấy chúng sanh còn hỡi say mê,
Khùng chỉ rõ đường tà nẻo chánh.
Ta là kẻ vô hình hữu ảnh,
Ẩn xác phàm gìn đạoThích-Ca. [390]
Làm gian ác là quỉ là ma,
Làm chơn chánh là Tiên là Phật.
Hiếm những kẻ không nhà không đất,
Mà sang giàu chẳng xót thương giùm.
Có lỡ-lầm chưởi mắng um-sùm,
Thêm đánh đập khác nào con vật.
Ăn không hết lo dành lo cất,
Đem bạc trăm cúng Phật làm chi?
Phật Tây-Phương vốn tánh từ-bi,
Đâu túng thiếu mà quơ mà tởi. [400]
Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,
Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm.
Đến loạn-ly khổ hạnh khỏi lâm,
Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.
Chẳng làm phước để làm hung dữ,
Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ.
Phật Tây-Phương có lẽ hiểu dư,
Dụng tâm ý chớ không dụng vật.
Muốn bổn-đạo tánh tình chơn-chất,
Rèn lòng hiền thương xót lẫn nhau. [410]
Kể từ rày vàng lộn với thau,
Phật, Tiên, Thánh cùng nhau xuống thế.
Cứu bá-tánh không cần lễ mễ,
Để dắt-dìu đạo lý rành đường.
Nước Nam-Việt nhằm cõi Trung-Ương,
Sau sẽ có Phật Tiên tại thế.
Khuyên sư vãi bớt dùng của thế,
Gắng công tu đặng có xem đời.
Tu thật tâm thì được thảnh-thơi,
Tu giả-dối thì lao thì lý, [420]
Khùng khuyên hết kẻ ngu người trí,
Rán tỉnh tâm suy nghĩ Đạo-mầu.
Chuyện huyền-cơ bí-hiểm cao sâu,
Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh.
Các chư Phật không khi nào rảnh,
Tâm từ-bi vẫn nhớ chúng-sanh.
Các chư Thần tuần vãng năm canh,
Về Thượng-Giái tâu qua Thượng-Đế.
Sổ tội ác thì vô số kể,
Còn làm nhơn thì quá ít-oi. [430]
Hội công-đồng xem xét hẳn-hòi,
Sai chư tướng xuống răn trần-thế.
Đau nhiều chứng dị-kỳ khó kể,
Sắp từ nay lao-khổ đến cùng.
Kẻ dương gian khó nổi thung-dung,
Người bạo ác không toàn tánh mạng.
Đường đạo-lý chớ nên chán-nản,
Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.
Phật Tây-Phương thiệt quá xa-xăm,
Phải tìm kiếm ở trong não trí. [440]
Sau đến việc sơn băng kiệt thủy,
Khùng thảm thương bá-tánh quá chừng.
Nhìn xem trần nước mắt rưng-rưng,
Cảnh áo-não kể sao cho xiết.
Ta dạy-dỗ là vì tình thiệt,
Cho bá-gia rõ biết người Khùng.
Thấy dương-trần làm dữ làm hung,
Nên khuyên nhủ cho người lương-thiện.
Chữ Lục-Tự trì tâm bất viễn,
Thì lâm nguy có kẻ cứu mình. [450]
Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,
Mà truyền-bá đặng nhiều phước-đức.
Trong bá-tánh từ nay buồn bực,
Khùng yêu dân chỉ rõ Đạo mầu.
Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.
Việc biến chuyển Thiên-Cơ rất gấp,
Khuyên chúng-sanh hãy rán tu hành.
Cầu linh-hồn cho được vãng-sanh,
Đây chỉ rõ đường đi nước bước. [460]
Hãy tưởng Phật đừng làm bạo ngược,
Ta phần hồn dạo khắp thế-gian.
Vào xác-trần nước mắt chứa-chan,
Khắp lê-thứ nghe lời thì ít .
Chốn sơn-lãnh bây giờ mù-mịt,
Cho nên dân dạy chẳng nghe lời.
Kể từ nay nói chuyện chiều mơi,
Chớ chẳng nói dông dài khó hiểu.
Cờ đã thất còn chờ nước chiếu,
Mà còn ăn con chốt làm chi. [470]
Ai là người quân-tử tu mi?
Phải sớm xử thân mình cho vẹn.
Chừng lập Hội khỏi thùa khỏi thẹn,
Với Phật-Tiên cũng chẳng xa chi.
Lời cao-siêu khuyên hãy gắn ghi,
Ta ra sức dắt-dìu bá-tánh. [476]
NAM-MÔ TAM-GIÁO QUI NGUƠN,
PHỔ-ĐỘ CHÚNG-SANH A-DI-ĐÀ PHẬT
BỬU ngọc vãng-lai rõ Đạo-mầu,
SƠN tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
KỲ giả thức tâm tìm Đạo-lý,
HƯƠNG tuyệt đăng lui bãi phục cầu.
—-oOo—-
03 – Sấm-giảng (quyển 3) [trở lại đầu trang]
SÁM GIẢNG
* Đây là quyển thứ ba mà Đức
Thầy viết tại Hòa Hảo năm 1939 (612 câu).
Ngồi trên đảnh núi liên đài,
Tu hành tầm Đạo một mai cứu đời.
Lan-thiên một cõi xa chơi,
Non cao đảnh thượng thảnh-thơi vô cùng.
Hiu hiu gió thổi lạnh-lùng,
Phất-phơ liễu yếu lạnh-lùng tòng mai.
Mùa xuân hứng cảnh lầu đài,
Lúc còn xác thịt thi tài hùng-anh.
Tứ vi mây phủ nhiễu đoanh,
Bồng-Lai một cõi hữu danh chữ đề. [10]
Kể từ Tiên cảnh Ta về,
Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm.
Dạo chơi tầm bực tri-âm,
Nay vì thương chúng trần-gian phản hồi.
Nghĩ mình trong sạch đã rồi,
Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa.
Phong-trần tâm đã rời ra,
Ngọc-Thanh là hiệu ai mà dám tranh.
Ngày ra chơi chốn rừng xanh,
Tối về kinh kệ cửi canh mặc người. [20]
Xuống trần lỡ khóc lỡ cười,
Ham vui đào mận vuông tròn chẳng xong.
Chừng nào sấu nọ hóa long,
Trần-gian mới rõ tấm lòng Thần-Tiên.
Thương đời ta mượn bút nghiên,
Thở-than ít tiếng giải phiền lòng son.
Bắt đầu cha nọ lạc con,
Thân Nầy thương chúng hao mòn từ đây.
Minh-Hoàng chưa ngự đài mây,
Gẫm trong thế-sự còn đầy gian-truân. [30]
Đò đưa cứu kẻ trầm-luân,
Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi.
Thảm-thương thế sự lắm ôi,
Dẫy-đầy thê-thảm lắm hồi mê ly.
Dạo chơi Lục-Tỉnh một khi,
Rước đưa người tục tu-trì xa khơi.
No chiều rồi lại đói mơi,
Dương-trần sắp vướng bịnh Trời từ đây.
Khuyên trần sớm liệu bắp khoai,
Cháo rau đỡ dạ tháng ngày cho qua. [40]
Nhắn cùng bổn đạo gần xa,
Tu hành trì chí mới là liễu mai.
Nguyện cầu qua khỏi nạn tai,
Đặng coi Tiên-Thánh lầu-đài quốc-vương.
Niệm Phật nào đợi mùi hương,
Miễn tâm thành-kính tòa-chương cũng gần.
Lao-xao bể Bắc non Tần,
Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.
Tranh phân cho rõ tài ba,
Cùng nhau giành-giựt mới là thây phơi. [50]
Khổ-lao đà sắp đến nơi,
Thế-gian bớt miệng kêu mời cõi âm.
Dầu cho có ở xa-xăm,
Cũng là rán tới viếng thăm dương-trần.
Ngũ-Hành cùng các chư Thần,
Từ đây sắp đến xuống gần chúng-sanh.
Chuông kia treo sợi chỉ mành,
Chẳng lo thân phận lo giành bướm ong.
Hiếu-trung hãy liệu cho xong,
Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về. [60]
Bây giờ kẻ Sở người Tề,
Hiền-lương đến Hội cũng kề với nhau.
Phật Trời chẳng luận nghèo giàu,
Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên.
Hữu phần thì cũng hữu duyên,
Sửa tâm hiền đức cõi Tiên cũng gần.
Ta mang mình thịt xác trần,
Ra tay dắt chúng được gần Bồng-Lai.
Mai sau nhiều cuộc đất cày,
Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa. [70]
Lập rồi cái Hội Long-Hoa,
Đặng coi hiền-đức được là bao nhiêu.
Gian-tà hồn xác cũng tiêu,
Thảm-thương bá-tánh chín chiều ruột đau.
Mặc ai tranh luận thấp cao,
Thương trong lê thứ xáo-xào từ đây.
Chinh chinh bóng xế về tây,
Đoái nhìn trần-thế xác thây ê-hề.
Thương trần Ta cũng rán thề,
Đặng cho bá-tánh liệu bề tu thân. [80]
Tu hành chẳng được đức ân,
Thì Ta chẳng phải xác thân người đời.
Phật truyền Ta dạy mấy lời,
Đặng cho trần-thế thức thời tu-thân.
Nào là luân lý Tứ-Ân,
Phải lo đền-đáp xác thân mới còn.
Ai mà sửa đặng vuông tròn,
Long-Vân đến hội lầu son dựa kề.
Thương đời văn-vật say mê,
Làm điều gian-ác thảm-thê sau nầy. [90]
Kể từ hầu hạ bên Thầy,
Vào ra chầu-chực đài mây cũng gần.
Tuy là nương dựa non Tần,
Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam.
Qua sông nhờ được cầu Lam,
Tu hành nào đợi chùa am làm gì.
Bây giờ bạc lộn với chì,
Nữa sau lọc lại vít tì cũng chê.
Bớ dân chớ có say mê,
Trung-lương chánh-trực dựa kề đài mây. [100]
Mảng lo gây gổ tối ngày,
Chẳng lo rèn đúc trí tài hiền-lương.
Thân Nầy ăn tuyết nằm sương,
Chẳng than chẳng thở vì thương thế-trần.
Theo Thầy giảng dạy nhiều lần,
Dương-gian nào biết thế-trần nào hay.
Cầu cho dân khỏi nạn tai,
Qua nơi khổ-não mặc ai chê cười.
Bạc đâu dám sánh vàng mười,
U-mê mà lại chê cười Thần Tiên. [110]
Giã-từ sơn-lãnh lâm-tuyền,
Về đây hội hiệp sạ duyên tớ Thầy.
Ở rừng bạn với cáo-cầy,
Bây giờ xuống thế cáo-cầy lìa xa.
Thiên-cơ biến đổi can qua,
Gẫm trong thế-giới còn đôi ba phần.
Mau mau kíp kíp chuyên cần,
Chúng sanh còn có lập thân hội nầy.
Tuần-huờn Thiên-Địa đổi xây,
Cảm thương trần-hạ lòng Đây chẳng sờn. [120]
Cũng còn kẻ ghét người hờn,
Vì không rõ hiểu sạ duơn của Thầy.
Hổ-lang ác-thú muôn bầy,
Lớp bay lớp chạy sau nầy đa-đoan.
Ai mà ăn ở nghinh-ngang,
Đón đường nó bắt xé tan xác hồn.
Chữ rằng họa phước vô môn,
Đáo đầu cũng phải xác hồn tiêu tan.
Khuyên người hữu phước giàu sang,
Mau mau làm phước làm doan cho rồi. [130]
Để sau khó đứng khôn ngồi,
Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.
Ai mà ăn ở ngược xuôi,
Bị nơi rắn rít chẳng vui đâu là.
Rắn to tên gọi mãng-xà,
Trên rừng nó xuống nó tha dương-trần.
Ai mà tu tỉnh chuyên cần,
Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho.
Thương đời hết dạ cần lo,
Chẳng lo niệm Phật nhỏ to làm gì. [140]
Tu là: tâm trí nhu mì,
Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.
Tu cầu cứu vớt Tổ-Tông,
Với cho bá-tánh máu hồng bớt rơi.
Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi,
Quốc-vương thủy-thổ chiều mơi phản-hồi.
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Người tu phải lánh hơi men,
Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình. [150]
Tu là sửa trọn ân tình,
Tào-khang chồng vợ bố-kình đừng phai.
Tu cầu Đức Phật Như-Lai,
Cứu dân qua khỏi nạn tai buổi nầy.
Chữ tu chớ khá trễ chầy,
Phải trau phải sửa nghe Thầy dạy khuyên.
Ra đời xưng hiệu Khùng Điên,
Nào ai có rõ Thần Tiên là gì.
Tu không cần lạy cần quì,
Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau. [160]
Trí hiền tâm đức chùi lau,
Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng.
Vinh-hoa phú-quí chẳng màng,
Ra oai ra lực cỡi thoàn xa chơi.
Con sông dòng nước chiều mơi,
Dốc lòng trả nợ nước đời cho xong.
Chừng nào bổn-đạo hiểu thông,
Thiên-cơ đạo lý để lòng mới thôi.
Chữ vinh chữ nhục mấy hồi,
Đến khi thất vận làm mồi yêu tinh. [170]
Tu rèn tâm trí cho minh,
Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau.
Hiểu rồi những việc lao-đao,
Ở cùng cô bác làm sao cho tròn.
Kính yêu nào phải hao mòn,
Ở cho phải nghĩa lòng son mới vừa.
Nghinh-ngang hỗn-ẩu phải chừa,
Bà con nội ngoại dạ thưa mới là.
Xóm diềng phải ở thật-thà,
Dầu không quen biết cũng là như quen. [180]
Ở cho cha mẹ ngợi khen,
Gặp người lâm nạn đua chen giúp giùm.
Xác thân là cái gông cùm,
Nếu làm chẳng trọn thú hùm xé thây.
Cho rồi nhơn-nghĩa mới hay,
Lễ-nghi phong-hóa đổi thay làm gì?
Từ đây biến đổi dị-kỳ,
Dương-thế chuyện gì cũng có chuyển lay.
Rèn tâm cho được thẳng ngay,
Khỏi nơi tà quỉ một mai thấy đời. [190]
Cũng là người ở trong trời,
Cớ sao ăn ở nhiều lời ngổn-ngang.
Hung hăng ỷ của giàu- sang,
Chẳng kiêng Trời Phật mê-man ỷ tiền.
Dạy rồi cái đạo tu hiền,
Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng.
Cũng đừng ghẹo gái có chồng,
Cũng đừng phá-hoại chữ đồng gái trinh.
Ra đường chọc ghẹo gái xinh,
Nữa sau mắc phải yêu-tinh hư mình. [200]
Xử cho vẹn chữ nghĩa tình,
Vâng lời cha mẹ mà gìn gia-cang.
Nghiêm-đường chịu lịnh cho an,
Loạn-luân cang-kỷ hổ mang tiếng đời.
Anh em đừng có đổi dời,
Phụ-phàng dưa muối xe lơi nghĩa-tình.
Tuy là Trời đất rộng thinh,
Có Thần xem xét phân minh cho người.
Vô duyên chưa nói mà cười,
Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên. [210]
Lớn lên phận gái cần-chuyên,
Làm ăn thì phải cho siêng mới là.
Phải gìn dục-vọng lòng tà,
Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân !
Nghe lời cha mẹ cân phân,
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi này.
Tình duyên chẳng kíp thì chầy,
Chớ đừng cải lịnh gió-mây ngoại-tình.
Đi thưa về cũng phải trình,
Công, dung, ngôn, hạnh, thân mình phải trau. [220]
Công là phải sửa làm sao,
Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên.
Mình là gái mới lớn lên,
Đừng cho công việc hớ-hênh mới là.
Chữ dung là phận đàn bà,
Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng.
Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn,
Cũng là phải sửa phải sang mới mầu.
Ngôn là lời nói mặc dầu,
Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn-ngoan. [230]
Đừng dùng lời tiếng phang-ngang,
Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.
Hạnh là đức tánh phải không?
Ở cùng chòm-xóm đừng cho mất lòng.
Bốn điều nếu đã làm xong,
Cũng gìn chữ hiếu phục tòng song thân.
Dạy rồi những chuyện đức ân,
Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào.
Lỗi-lầm chớ có hùng-hào,
Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi. [240]
Đem lời hiền-đức tốt tươi,
Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn.
Cũng đừng gây gổ giận-hờn,
Cho con bắt chước sạ dươn mới là.
Nam-Mô sáu chữ Di-Đà,
Từ-bi tế-độ vậy mà chúng sanh.
Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh,
Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi.
Trì tâm thì quá ít-oi,
Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào. [250]
Rạch tim đem để Nó vào,
Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi.
Để sau đến việc tả-tơi,
Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành.
Ngày nay chim đã gặp cành,
Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa.
Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa,
Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng.
Gẫm trong thế-sự trần-hoàn,
Người hung người ác tà-gian cũng nhiều. [260]
Thương đời ta mới đánh liều,
Mong người tu tỉnh ít nhiều cũng hay.
Muốn tu còn đợi chiều mai,
Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư.
Những người có của tiền dư,
Hãy nên bố-thí dành tư làm gì.
Sau đây nhiều chuyện ly-kỳ,
Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi!
Tại sao chẳng cúng chè xôi,
Bởi vì tận thế Phật thôi ăn chè. [270]
Cũng không có muốn hoa-hoè,
Lầu đài sơn phết cũng là chẳng ham.
Ai chê khờ dại cũng cam,
Chớ Tôi cũng chẳng có ham lầu đài.
Chữ tu hãy rán miệt-mài,
Đừng kể vắn dài đừng nệ mau lâu.
Giáo khuyên khắp hết đâu đâu,
Bớt điều mị-dối mới hầu thấy Ta.
Đừng theo lũ quỉ lũ ma,
Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen. [280]
Chết rồi cũng bớt cóc keng,
Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì.
Đàn nhu thầy lễ cũng kỳ,
Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng?
Lại thêm đờn địch từng tưng,
Đem con heo sống mà dưng làm gì?
Chủ gia kẻ lạy người quì,
Làm chuyện dị-kỳ giả-dối hay không?
Nếu không thì trả lời không,
Bằng mà có dối thì hòng sửa đi. [290]
Thương đời Ta luống sầu-bi,
Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
Rung đùi ngâm chuyện trên trời,
Tình duyên cá nước vậy thời dỗ con.
Thấy đời Ta cũng héo von,
Học nho mà chẳng làm tròn nghĩa-nhơn.
Khoe mình chẳng có ai hơn,
Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo.
Hiền nhơn chẳng chịu làm theo,
Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha. [300]
Hốt thời cắc bảy cắc ba,
Nó đòi năm cắc người ta hoảng hồn.
Lành bay còn ác lại tồn,
Đến chừng lập Hội xác hồn lìa xa.
Mấy anh thầy thuốc Lang-sa,
Cũng là mổ mật người ta lấy tiền.
Xin trong anh chị đừng phiền,
Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.
Muốn sau dựa được Các-Lân,
Hãy nên trau sửa hiền-nhân mới là. [310]
Những người quê dốt thật-thà,
Cũng nên tu niệm nhờ mà thân sau.
Lập đời mới biết thấp cao,
Bây giờ chưa biết ai thau ai chì.
Đời xưa có Ngũ-Viên-Kỳ,
Đem tài học thuốc hiến thì cho dân.
Người xưa còn chẳng cần thân,
Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ.
Để tâm yên-lặng như tờ,
Nghĩ suy lời lẽ tỏ mờ thể nao. [320]
Luận xem thế sự thấp cao,
Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu nhi.
Bớt bỏ rình-rang một khi,
Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
Là lời truyền-giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.
Gẫm trong thế sự nực cười,
Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay. [330]
Mình làm chữ hiếu mới hay,
Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
Mục-Liên cứu mẹ bằng nay,
Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ-bi.
Ai ai hãy rán mà suy,
Thương đời Ta tỏ chuyện ni rõ-ràng.
Làm tuần trà rượu xình-xoàng,
Rồi thì chưởi-lộn mà an nỗi gì? [340]
Dương-trần làm chuyện dị-kỳ,
Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo.
Của tiền chớ có bỏ theo,
Chết rồi tế-lễ bò heo làm gì?
Nếu ai biết chữ tu trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung-lăng,
Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan. [350]
Đạo là vốn thiệt cái đàng,
Ta ra sức dọn cho toàn chúng-sanh.
Thôi thôi bớt miệng hùng-anh,
Ở nơi cửa khẩu thiệt rành tiếng ni.
Chưng bày quân-tử làm chi,
Của đồ hổ-bịt vậy thì xưng hô.
Lũ đàng lũ điếm hồ-đồ,
Anh-hùng quân-tử xưng hô rền trời.
Gặp ai mắc nạn cười chơi,
Chớ không ra sức giúp đời điều chi. [360]
Hổ mình là bực tu mi,
Chưa tròn bổn-phận mà ti tôn mình.
Kể từ thượng lộ đăng trình,
Vào Nam ra Bắc mặc tình bôn-phi.
Khuyên răn trần-thế một khi,
Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.
Dương-gian làm huyễn nói càn,
Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
Hò reo giục trống nhiều câu,
Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười. [370]
Ta khuyên hết thảy các người,
Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
Đừng hò đừng réo làm chi,
Nghinh-ngang kêu múa có khi hại mình.
Nghe không thì cũng mặc tình,
Nói cho rõ-rệt dân tin không là.
Quan-Âm Nam-Hải Phổ-Đà,
Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo-truyền.
Thánh Thần không phải thiếu tiền,
Mà kêu mà réo xuống trần mà sai. [380]
Nam-Mô Quan-Âm Như-Lai,
Cầu xin chư Phật cứu nay dương-trần.
Khuyên đừng chưởi Thánh mắng Thần,
Xưa nay thứ lỗi thế-trần chẳng kiêng.
Lưỡng Thần ghi chép liên-miên,
Nào tội nào phước dưới miền trần gian.
Tâu qua Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,
Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều.
Chúng-sanh ngang-ngược làm liều,
Ngọc-Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi. [390]
Minh-Vương khó đứng khôn ngồi,
Thảm thương lê-thứ mắc hồi gian-truân.
Trước đền mắt ngọc lụy rưng,
Quí yêu bá-tánh biết chừng nào nguôi.
Làm sao cho dạ được vui,
Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần.
Lời khuyên xưa cũng một lần,
Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ.
Khôn-ngoan nghe nói ngẩn-ngơ,
Ngu-si thì tưởng như thơ biếm đời. [400]
Ở đâu cũng Phật cũng Trời,
Tâm thành chí nguyện xem đời khó chi.
Văn-Thù Bồ-Tát từ-bi,
Chèo thuyền Bát-Nhã cứu thì trần-gian.
Gió đưa lướt sóng buồm loan,
Rước người tu niệm xuê-xang phỉ tình.
Ai mà Ta dạy chẳng gìn,
Thì sau đừng trách mất tình yêu-đương.
Bàn-môn tài phép nào tường,
Kêu Trời giậm Đất cũng thì dạ rân. [410]
Nói cho trần-thế liệu toan,
Chớ theo tả-đạo mà tan xác hồn.
Nó làm nhiều phép nhiều môn,
Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng-sanh.
Thành binh sái đậu cũng rành,
Nếu tin thời mắc tan tành về sau.
Bây giờ bất luận người nào,
Không dùng của thế sắc màu cũng không.
Nói cho bổn-đạo rõ lòng,
Ấy là chơn-chánh mới hòng vinh-vang. [420]
Địa-Tiên tài phép đa đoan,
Phi đao bửu kiếm mê-man mắt trần.
Phật truyền thâu hết phép Thần,
Cứu an bá-tánh một lần nạn nguy.
Phiên-binh bốn phía tứ vi,
Kể sao cho xiết chuyện ni sau nầy.
Lớp thì thú ác dẫy-đầy,
Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.
Kẻ hung chừng đó làm mồi,
Cho bầy ác-thú đền bồi tội xưa. [430]
Bây giờ còn mãi lọc-lừa,
Chẳng lo kiếm chỗ đụt mưa sau nầy.
Hiền lành chừng đó sum-vầy,
Quân-thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
Đến đó Ta mới mừng cười,
Nhìn xem Ngọc-Đế giữa Trời định phân.
Thiên-Hoàng mở cửa Các-Lân,
Địa-Hoàng cũng mở mấy từng ngục-môn.
Mười cửa xem thấy ghê hồn,
Cho trần coi thử có mà hay không. [440]
Nhơn-Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng đồng trừng-trị kẻ lòng tà-gian.
Ấy là đến lúc xuê-xang,
Tam-Hoàng trở lại là đời Thượng-nguơn.
Khuyên dân lòng chớ có sờn,
Rán tu thì được xem đờn trên mây.
Người hung chết đất chật thây,
Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân.
Mấy người còn được xác thân,
Thì là Đài-Ngọc Các-Lân mới kề. [450]
Bây giờ kẻ nhún người trề,
Chê Ta rằng dại rằng khờ cũng cam.
Dương-trần bỏ bớt tánh tham,
Đừng chơi cờ-bạc đừng làm ác-gian.
Để sau coi Hội coi hàng,
Coi Tiên coi Phật mới ngoan bớ trần.
Điếm-đàng đĩ-thõa chớ gần,
Để sau xem thấy non Tần xôn-xao.
Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn. [460]
Đừng quen thói cũ làm càn,
Trộm gà cắp vịt xóm làng ghét vơ.
Khi xưa Ta cũng làm thơ,
Mà đời trần-hạ làm ngơ ít nhìn.
Dạy cho trần- thế phỉ tình,
Đàng Tiên cõi tục phân minh hai đường.
Bây giờ hát-bộ là thường,
Để sau Phật hát tỏ tường cho xem.
Cải-lương tuồng ấy cũ mèm,
Tốn tiền buồn ngủ lại thèm đồ ăn. [470]
Nhảy lui nhảy tới lăng-xăng,
Làm tuồng mèo mả thêm nhăng cho đời.
Hạ-nguơn lòng dạ đổi dời,
Bây giờ khổ-não đến đời là đây.
Rán nghe lời dạy của Thầy,
Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.
Tây-Phương Thầy lại quá xa,
Nên Ta mới nói cạn lời dân nghe.
Đừng ham lên ngựa xuống xe,
Ăn xài phí của lụa the làm gì. [480]
Xuống trần Ta dạy cố lỳ,
Cốt cho trần-thế nghe thì mới thôi .
Ngày nay xe lết xe lôi,
Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê,
Chúng-sanh thế-giới ê-hề thây phơi.
Trạng-Trình truyền sấm mấy lời,
Ngày nay dân-chúng vậy thời rán tri.
Hiền nhơn bổn phận tu mi.
Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền-cơ. [490]
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Chúng-sanh còn đợi còn chờ chuyện chi.
Trên Trời xuất hiện Tử-Vi,
Quang-minh sáng-suốt vậy thì dân ôi!
Thương dân khó đứng khôn ngồi,
Xót-xa dạ Ngọc bồi-hồi tâm Trung.
Gió dông thì cội cây rung,
Phương xa có giặc thung-dung đặng nào?
Trời tây chúng nó hùng-hào,
Đem lòng gây-gổ máu đào mới tuôn. [500]
Cầu Trời cho chúng qua truông,
Thế-gian yên-lặng hát tuồng khải ca.
Tây-Phương tuy ở cõi xa,
Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.
Ước-mong dân khỏi nạn tai,
Dắt-dìu Tiên-cảnh Bồng-Lai nhiều người.
Xem trần khó nỗi vui cười,
Lo giàu lo lợi chẳng rồi bớ dân.
Mẹ cha là kẻ trọng ân,
Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu già. [510]
Giường linh đơm quảy mới là,
Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi!
Ta là thân phận làm tôi,
Phải đền phải đáp cho rồi mới hay.
Mặc ai tranh luận đấu tài,
Khuyên dân nên hãy miệt-mài chữ Tu.
Giảng này ra cuối mùa thu,
Dạy ăn dạy ở chữ Tu vuông tròn.
Học theo mối đạo làm con,
Luận xem học mới mấy đon đời nầy. [520]
Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.
Trong tâm nhớ những điều tà,
Lời ăn tiếng nói thiệt là quá lanh.
Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
Chẳng trau hiền-đức học-hành làm chi?
Khôn-ngoan thời những chuyện gì,
Cũng là lừa dối vậy thì dân quê. [530]
Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ-bại u-mê hơn mình.
Tự-do trai gái kết tình,
Với lo trau-sửa cho mình đẹp tươi.
Gái trai đến tuổi đôi mươi,
Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả-lơi.
So hình sửa sắc chiều mơi,
Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.
Cớ sao chê cổ trọng kim,
Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con. [540]
Thấy đời trần-hạ thon-von,
Ai nuôi cho lớn mà còn khinh-khi.
Ông cha thuở trước ngu-si,
Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.
Học hay lợi dụng tiền tài,
Lên quan xuống huyện ăn-xài lả-lê.
Gặp ai đói rách cười chê,
Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
Chẳng lo rèn trí lập thân,
Để làm xảo-trá khổ thân sau nầy. [550]
Giáo-viên các sở các thầy,
Khuyên mau tỉnh ngộ tập rày lòng nhơn.
Giúp đời đừng đợi trả ơn,
Miễn tròn bổn-phận hay hơn bạc vàng.
Đánh liều Ta cũng nói càn,
Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo.
Vinh-hoa như thể bọt-bèo,
Hiền-lương bất luận khó nghèo cũng xinh.
Nhắc năm Gia-Tĩnh triều Minh,
Nàng Kiều vì hiếu bán mình chuộc cha. [560]
Tuy là lưu-lạc bôn-ba,
Đến khi mãn hạn bạn xưa cũng nhìn.
Ghét ưa Ta cũng mặc tình,
Nghiệm kim suy cổ biện minh thế nào.
Bá-gia kẻ thấp người cao,
Hiền-thần hiếu-nghĩa rán trau cho rồi.
Giảng này chỉ các điều tồi,
Khuyên dân hãy rán mà ngồi mà suy.
Thân ta, Ta chẳng tiếc chi,
Miễn cho bá- tánh nạn gì cũng qua. [570]
Luận xem những việc sâu xa,
Chúng-sanh tưởng Phật thì là hãy coi.
Tháng ngày như thể đưa thoi,
Nguyện cầu thế giới bớt ngòi chiến-tranh.
Ngồi buồn dân gặp chiếu manh,
Ta cho bá-tánh bức tranh vô hình.
Ai ai cũng rán xét mình,
Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài.
Cạn lời mà ý còn dài,
Hiến cho trần-hạ một bài ngụ-ngôn. [580]
Tới đây Ta giã làng thôn,
Ngọc-Thanh lui gót phi bôn Nam-Kỳ.
Hiền thần sách sử nêu ghi,
Miễu son tạc để tu-mi trung thần.
Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,
Ta khuyên dân-chúng ân-cần nhìn xem.
Ra đời dạy-dỗ anh em,
Xem qua ít bận rán đem vào lòng.
Người tu như thể bá-tòng,
Ai ai cũng quí cũng trông cũng nhìn. [590]
Sửa trau là phận của mình,
Xưa nay lời lẽ sử kinh rõ-ràng.
Chừng nào ta gặp Hớn-Hoàng,
Chúng-sanh mới hết phàn nàn số căn.
Mạnh-Tông xưa cũng khóc măng,
Đất khô nẩy mụt rõ lòng hiếu nhi.
Mặc ai nhạo báng khinh khi,
Phần ta niệm chữ từ-bi độ đời.
Muốn xem được Phật được Trời,
Thì là phải rán nghe lời dạy răn. [600]
Bá-gia cùng các chư tăng,
Việc tu không đợi hương đăng làm gì.
Đời cùng tu gấp kịp thì,
Đặng xem báu ngọc ly-kỳ Năm non.
Phật thương bổn-đạo như con,
Muốn cho bổn-đạo lòng son ghi lời.
Nữa sau đến việc biết đời,
Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.
Tới đây cũng dứt giảng kinh,
Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu.
Nam-mô lòng sở nguyện-cầu,
Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan. [612]
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(tam niệm)
Cầu Phật-Tổ, Phật-Thầy, quan Thượng-Đẳng Đại-Thần, chư quan Cựu-Thần, chư vị Sơn-Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ-độ bá-tánh vạn dân tiêu tai tịnh sự giải-thoát mê-ly.
—-oOo—-
04 – Giác mê tâm kệ (quyển 4) [trở lại đầu trang]
GIÁC MÊ TÂM KỆ
* Đây là quyển thứ tư mà
Đức Thầy đã viết ngày 20
tháng 9 năm Kỷ Mão (1939)
tại Hòa Hảo (846 câu)
Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,
Tìm con lành dắt lại Phật đường.
Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương,
Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ.
Sách Thánh đạo ghi trong Tam-Tự,
Người mới sanh tánh thiện Trời dành.
Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,
Nên tật xấu che mờ thiện-tánh.
Thiếu giáo-dục thiếu thêm đức-hạnh,
Ta quyết lòng nhắc lại tánh xưa. [10]
Mặc tình đời gièm-siểm ghét ưa,
Rừng kinh-kệ ít người hay chữ.
Quá mắt-mỏ bởi chưng Phạn-ngữ,
Nên người đời khó kiếm cho ra.
Mõ chuông bày đọc tụng ó la,
Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa-lý.
Dòm trước mắt thấy điều hồ-mị,
Nên động tình bác-ái dạy răn.
Réo những ai lợi dụng làm xằng,
Cho suy-sụp chơn-nhơn mờ-mịt. [20]
Nào có khác mây đen phủ bít,
Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây.
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút mây,
Trong bổn-đạo tự thân phải xử.
Xuống dương thế dạo trong lê-thứ,
Thấy bá-gia gặp lúc não-nùng.
Cảnh trần-gian nhiều nỗi lao-lung,
Việc tu tỉnh ít người hiểu lý.
Trong bá tánh muốn nơi cao quí,
Phải truy tầm huyền-bí nơi cơ. [30]
Từ sấm kinh cho đến thi thơ,
Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu.
Tạo làm chi những trung với hiếu!
Ấy là người bổn-phận phải trau.
Khuyên dương-trần đừng nệ cần-lao,
Cũng rán sửa rán trau nền Đạo.
Tu đầu tóc không cần phải cạo,
Miễn cho rồi cái đạo làm người.
Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười,
Vì buồn bực thấy đời biến chuyển. [40]
Các chư Phật từ đây lựa tuyển,
Coi ai là đức-hạnh hiền-từ.
Lời sách xưa cận thủy tri ngư,
Cận sơn lãnh trần-gian tri điểu.
Trong sấm-giảng nếu ai không hiểu,
Tầm kệ này Ta chỉ nẻo đường.
Quyết dạy trần nên nói lời thường,
Cho sanh chúng đời nay dễ biết.
Trời dông gió sái mùa sái tiết,
Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi. [50]
Khuyên dương-gian bỏ các việc tồi,
Đặng lo liệu cho tròn phận-sự.
Thấy trần thế hãy còn lưỡng-lự,
Muốn tu mà còn hỡi chần-chờ.
Việc thế-gian như thể cuộc cờ,
Thắng với thối một hai nước tướng.
Nào Ai có gạt dân nói bướng,
Mà dương-trần liệu lượng chánh tà.
Ta mến yêu những kẻ thiệt-thà,
Nghe cơ-giảng thiết-tha lo-liệu. [60]
Học đạo-lý như đờn trúng điệu,
Hoà bản rồi thì cứ làm theo.
Lũ Tam-Bành trong bụng còn đeo,
Đoàn Lục-tặc ta mau sớm giết.
Mài gươm trí cho tinh cho khiết,
Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không.
Đức Di-Đà Phật-Tổ ngóng trông,
Chờ dân-chúng tìm nơi diệt khổ.
Theo Phật-Giáo từ kim chí cổ,
Gốc ông cha ta cũng tu-hành. [70]
Mà ngày nay cứ mãi tranh giành,
Danh với lợi, của tiền, quyền tước.
Thấy trần-thế ai ai cũng ước,
Đời sao không tới phứt cho rồi.
Nay khổ lao khó đứng khôn ngồi,
Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn.
Làm ác đức nhiều điều quanh quẩn,
Như gà cồ ăn bẩn cối xay.
Thấy người hiền nói đắng nói cay,
Sau mới biết thân ai lao khổ. [80]
Nhớ thuở trước oai-linh Phật-Tổ,
Phép thần-thông trừ lũ Ma-Vương.
Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương,
Tìm đạo-lý hiến cho trần-thế.
Hiệu Lão-Sĩ ra đời thật-tế,
Đem lời vàng dạy-dỗ dương-trần.
Khuyên chúng-sanh khuya sớm chuyên-cần,
Tìm nguồn-cội diệt-trừ Tứ Khổ.
Bịnh với Tử từ kim chí cổ,
Sanh với Già hai chữ hoài-hoài. [90]
Đức Thích-Ca xưa ở lầu đài,
Nghiệm Tứ-Khổ nên Ngài tầm Đạo.
Lo tu tỉnh mặc ai khinh-ngạo,
Diệt Lục-Căn đừng nhiễm Lục-Trần.
Chữ Sắc-Thinh chớ có hầu gần,
Hương với Vị xác trần nên lánh.
Chữ Xúc-Pháp treo gương Hiền Thánh,
Tránh Sáu Đường cũng đặng về Thần.
Từ xưa nay dạy chỉ nhiều lần,
Mà lê-thứ không lo chẳng liệu. [100]
Nhãn thấy sắc thường hay bận-bịu,
Tai ưa nghe những điệu âm thinh.
Mắt với tai đều chọn đẹp xinh,
Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu.
Đồ thơm tho nó ưa nó chịu,
Chốn xạ hương hay lết lại gần.
Lưỡi ưa ngon là chuyện ân-cần,
Đồ ngọt béo nó ưa nó mến.
Thân tham sướng muốn tiền của đến,
Đặng ăn xài cho phỉ tấm tình. [110]
Ý thì ưa sửa sắc soi hình,
Với chức phận cho cao cho quí.
Sáu đường ấy ở trong tâm ý,
Ta mau mau dứt nó cho rồi.
Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi,
Mượn trí-đạo đuổi ra khỏi xác.
Dứt được nó ấy là giải thoát,
Thì xác trần mới khỏi đọa-đày.
Cả tiếng kêu những kẻ trí tài,
Hãy yên lặng bình tâm suy-nghĩ. [120]
Tiên xử kỷ hậu lai xử bỉ,
Bắt lỗi người phải xét lỗi mình.
Vậy mới là phải bực công-bình,
Nẻo chánh-trực chí người quân-tử.
Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,
Nói với ai chớ có sai lời.
Trọng mẹ cha kính nể Phật-Trời,
Đừng nhiều tiếng nghinh-ngang mang lỗi.
Tánh ngay thẳng ta không dời đổi,
Dầu tan xương nát thịt chẳng màng. [130]
Ta Khùng Điên nói đại nói càn,
Chẳng có sợ ai rầy ai mắng.
Trời còn lúc tối mưa sớm nắng,
Thì trần-gian còn mãi khổ lao.
Ở trên đời kẻ thấp người cao,
Kẻ hiền-hậu người thì gian-ác.
Không quen biết mà cao tuổi tác,
Ta cũng nên kính trọng mới là.
Tâm từ-bi sánh thể ngọc-ngà,
Trong các báu khó bì tánh Thiện. [140]
Phải xử thế chớ nên bày biện,
Miệng xảo ngôn thường kiện tấm thân.
Việc bán buôn phải giữ ngang cân,
Chớ tập tánh lận lường tráo đấu.
Các công cuộc của người tánh xấu,
Ta giữ-gìn chớ có nhiễm vào.
Tâm Bần Tăng chẳng mến sắc màu,
Mến những kẻ biết vào đường chánh.
Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh,
Nên truyền ban cho chúng-sanh tường. [150]
Tuy ngày nay chúng nó hùng-cường,
Chừng phân định thì Ta cao-quí.
Khuyên bổn-đạo lập thân nuôi chí,
Đặng chờ ngày yết-kiến Phật Trời.
Quá yêu dân cạn tỏ nhiều lời,
Cho trần-hạ tìm trong lánh đục.
Chẳng chịu tu mãi còn lục-thục,
Lo giàu nghèo lo cũng chẳng rành.
Ham công-danh quên chữ sanh-thành,
Mến phú-quí quên câu dưỡng-dục. [160]
Rán kiếm chỗ tầm Tiên lánh tục,
Người ở đời phải được lòng trong.
Biển hồng-trần sớm gội cho xong,
Ngày lập hội mới mong trở lại.
Chữ bần-tiện khuyên dân đừng nại,
Miễn cho ta trở lại ngay đàng.
Chữ vinh-hoa giờ chớ có màng,
Bởi giả tạm của đời Nguơn-hạ.
Gắng công tu xem nhiều phép lạ,
Của Thần-Tiên trừ lũ hung-đồ. [170]
Nào lụa là, lãnh nhiễu, tố sô,
Chớ ham mến mà sau lao-lý.
Ngày tiêu-diệt từ năm Bính-Tý,
Đến năm nay hao hớt đã nhiều.
Các ngoại bang đà nhượm máu điều,
Sao trần-thế không toan chẳng liệu.
Để đến việc dang lưng mà chịu,
Chớ Phật đâu cứu kịp cho người.
Khuyên chúng-sanh bỏ tánh biếng lười,
Phải sốt-sắng làm ăn cần-thiết. [180]
Nghèo với đói từ đây sẽ biết,
Hàng ngoại bang bố-thiết ta hoài.
Nên bá-gia hãy rán miệt-mài,
Dầu rách rưới cũng mau cần-kiệm.
Lời Ta dạy hãy nên suy-nghiệm,
Phải phá tan Ngũ-Uẩn trong mình.
Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,
Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.
Chữ gây-gổ là Sân hãy diệt,
Cho nó đừng thấp-thoáng trong lòng. [190]
Thêm chữ Si thiệt quá lòng-dòng,
Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt.
Chữ Nhơn Ngã cũng là quá gắt,
Ta chớ nên phân biệt với người.
Dẹp năm tên được mới mừng cười,
Vô pháp-tướng mới là thiệt tướng.
Người tu hành phải trừ nghiệp-chướng,
Với bốn ma mới đặng an-nhàn.
Tửu nhiễm vào thân thể bất an,
Sắc mến nó ngày kia lao khổ. [200]
Ta nghiệm xét từ đời Bàn-Cổ,
Có ai dùng mà đặng thành Tiên.
Mà đời nay theo nó liên-miên,
Chữ Tài của khổ riêng một kiếp.
Bị tội cướp nào ai có tiếp,
Mà đời nay nó cứ mãi làm.
Chữ Khí hùng khuyên chớ có ham,
Mà lao-lý tấm thân trần-thế.
Kẻ nhứt dạ thường sanh bá kế,
Để gạt người làm thế cho mình. [210]
Ngày sau nầy lắm nỗi tội tình,
Sao sanh-chúng chẳng lo cải sửa.
Bịnh ôn-dịch thường hay ói mửa,
Mà dương-trần chẳng chịu kiêng-dè.
Qua năm Dê đến lúc mùa hè,
Trong bá-tánh biết ai hữu chí.
Ta chịu lịnh Tây-Phương thọ ký,
Gìn Nghiệt-Long đặng cứu dương-trần.
Nên ra đời dạy-dỗ ân-cần,
Khuyên bá-tánh vạn dân liệu lấy. [220]
Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà-gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha-thiết.
Trần với thế bây giờ nào biết,
Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường.
Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
Sau danh thể xạ hương khắp chốn.
Nhà giàu có xài không sợ tốn,
Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn. [230]
Lo ăn xài trà rượu xình-xoàng,
Chừng khổ não phàn-nàn căn số.
Lời truyền sấm như bài toán đố,
Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ.
Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,
Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc.
Bị ngoại quốc bán hàng quá gắt,
Nên dân ta chịu chữ cơ-hàn.
Ta Khùng Điên của cải chẳng màng,
Miễn lê-thứ được câu hạnh-phúc. [240]
Cờ thế-giới ngày nay gần thúc,
Nên Phật Tiên phải xuống hồng-trần.
Chừng lao-xao ác thú non Tần,
Thì Nam-Quốc lương dân mới biết.
Nay dạy thế cậy cùng ngòi viết,
Với xác trần du-thuyết ít hàng.
Ai nói chi Ta cũng chẳng màng,
Sau biết đặng dân đừng có tiếc.
Con phù-du hẫng-hờ nào biết,
Thấy bóng đèn thì quyết chun vô. [250]
Thảm thương thay chết héo chết khô,
Nhìn đèn nọ thấy mồ phù-dũ.
Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,
Đeo danh-lợi như con vật ấy.
Giống xe cát biển Đông thường thấy,
Tên dã-tràng rất uổng công-trình.
Khi nước ròng nhờ lúc bình-minh,
Lúc nước lớn cát kia tan rã.
Trần phú-quí thì trần thong-thả,
Chớ còn Ta cứ khổ lao hoài. [260]
Viết kệ-cơ giảng dạy ít bài,
Mặc lê-thứ làm không tự ý.
Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.
Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
Chớ chẳng phải của người lãng-trí.
Mê với tỉnh nhận ra là lý,
Thấy dương-trần ngủ mãi ngủ hoài.
Thức dậy mà tầm Đạo kiếm bài,
Để thi-cử khỏi mang tiếng rớt. [270]
Sách khuyến-thiện miệng kêu không ngớt,
Mà nào ai có thức dậy tầm.
Ta nghĩ suy cũng bắt hổ thầm,
Nên than-thở cùng trần ít tiếng.
Tâm sáng suốt như đài nguyệt-kiến,
Tánh trong như nước bích mùa xuân.
Nếu không tu chừng khổ cũng ưng,
Đừng có trách sao không chỉ bảo.
Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
Mắc trong vòng sanh tử luân hồi. [280]
Xuống Diêm-Đình thấy tội hỡi ôi!
Đó mới biết có nơi địa-ngục.
Kỳ xá tội nay còn một lúc,
Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ.
Gặp giảng kinh trần cứ làm ngơ,
Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.
Địa-ngục cũng tại Tâm làm quấy,
Về thiên-đàng Tâm ấy tạo ra.
Cái chữ Tâm mà Quỉ hay Ma,
Tiên hay Phật cũng là tại nó. [290]
Tu với tỉnh biết làm chẳng khó,
Nếu lặng Tâm tỏ-ngộ Đạo mầu.
Cảnh dương-gian muôn thảm ngàn sầu,
Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.
Sông với núi trước kia mắt ngó,
Khi chết rồi thấy nó đặng nào.
Ai biết đường hãy sớm tẩu-đào,
Kiếm Đạo-lý mà nhờ mà nhõi.
Chịu cay-đắng tu hành mới giỏi,
Ta thương đời len-lỏi xuống trần. [300]
Đạo vô-vi của Phật ân-cần,
Nối theo chí Thích-Ca ngày trước.
Câu phú-quí Ngài không màng-ước,
Chữ bồ-đề như cội bá-tòng.
Rán dưỡng-nuôi chữ đó trong lòng,
Thì là được định chừng diệu-quả.
Lời thuyết-pháp chẳng vì nhơn-ngã,
Người nào đâu có Phật-tánh là.
Xem kệ này như ngọc như ngà,
Phải nảy nở như cơn mưa thuận. [310]
Hạp mùa tiết giống kia bất luận,
Thảy mọc mầm trổ lá mới mầu.
Trông chúng-sanh nghĩ tận đuôi đầu,
Về Cực-Lạc mới là hết khổ.
Đạo với lý từ đây nhiều chỗ,
Phải lọc-lừa cho kỹ mà nhờ.
Chọn nơi nào đạo chánh phượng thờ,
Thì mới được thân sau cao-quí.
Nhìn Phật-Giáo mà tìm cái lý,
Coi tại sao ta phải tu hành. [320]
Vì yêu dân Ta kể ngọn-ngành,
Khuyên lê-thứ làm lành mà tránh.
Cảnh Niết-Bàn là nơi cứu cánh,
Về chốn ni xa lánh hồng-trần.
Dầu không siêu cũng đặng về Thần,
Nhờ hai chữ trung-quân ái-quốc.
Chừng lập Hội biết ai còn mất,
Giờ chưa phân chưa biết chánh tà.
Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa,
Đền Linh-Khứu sơn trung chịu mạng. [330]
Nền đạo-đức Ta bày quá cạn,
Mà dương-gian còn gạn danh từ.
Làm cho Ta lỡ khóc lỡ cười,
Khóc là khóc thương người ngu muội.
Thấy Điên Khùng làm như sắt nguội,
Chẳng tranh đương nó lại khinh-khi.
Ngó về Tây niệm chữ từ-bi,
Cười trần-thế mê-si thái quá.
Tranh với luận đặng giành cơm cá,
Khuyến-dụ người đặng kiếm bạc tiền. [340]
Thấy chúng-sanh ghét ngỏ ganh hiền,
Theo chế-nhạo những người tu tỉnh.
Tu không tu cũng không mời thỉnh,
Mặc tình ai trọng-kỉnh hay chê.
Thương lê-dân còn mảng say mê,
Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng.
Thấy Ta lại nói cay nói đắng,
Đắng với cay Ta cũng chẳng màng.
Chừng trần-gian kiến thấy phụng-hoàng,
Sè cánh múa chào mừng Phật Thánh. [350]
Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh,
Còn ẩn nơi tim óc xác phàm.
Ai biết tri việc phải cứ làm,
Sau mới biết ai Phàm ai Thánh.
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp quá rành.
Lựa làm chi cao chữ học hành,
Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo.
Việc cổ tích cần chi phải thạo,
Chuyện qua rồi kể lại làm gì. [360]
Nếu ai mà biết chữ tu trì,
Tâm bình tịnh được thì phát huệ.
Ta yêu chúng viết ra Giảng Kệ,
Khuyên tăng-đồ cùng các tín-đồ.
Nghe cạn lời chớ có mờ-hồ,
Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo.
Trần với thế nó hay kiêu-ngạo,
Các nhà sư hãy rán sửa mình.
Nếu xuất gia ngũ-giái rán gìn,
Tu chơn chánh mới không hổ tiếng. [370]
Cả ngàn năm nhơn tâm xao-xuyến,
Sao tu hoài chẳng thấy ai thành.
Bởi chữ tu liền với chữ hành,
Hành bất chánh người đời mới nói.
Bị tăng chúng quá ham chùa ngói,
Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng.
Phật nào ham tượng cốt phết vàng,
Mà tăng tạo hao tiền bá-tánh.
Việc giả dối từ đây nên lánh,
Bổn-đạo ôi! hãy rán sửa mình. [380]
Cuộc dạy đời Ta lắm công-trình,
Làm chẳng trọn uổng thay một kiếp.
Lời chơn-chánh trần hay bỏ liếp,
Mãi lo làm húng-hiếp người hiền.
Mà làm cho Ngọc-Đế thảm-phiền,
Muốn trừng-trị trần-gian thảm-thiết.
Đức Phật-Tổ tâm Ngài nhứt quyết,
Tâu Ngọc-Hoàng để Phật dạy trần.
Nên ra Kinh, Cơ-Giảng nhiều lần,
Mà dương-thế chẳng cần xét đến. [390]
Xác trần-tục như cây cạnh khến,
Làm hiền hoài ắt phải tiêu mòn.
Đẽo với bào riết nó cũng tròn,
Đến chừng đó trông vào rất tốt.
Lũ giả-dối thường hay thề-thốt,
Nó chẳng kiêng Thần Thánh là gì.
Tâm kẻ hung làm chuyện cố-lỳ,
Chẳng có sợ mang điều tội phước.
Ghét những kẻ tu hành bốc-xước,
Miệng kêu gào chuyện phước bề ngoài. [400]
Bước vào chùa thấy Phật lạy dài,
Lui khỏi cửa ra tay cấu-xé.
Thấy quyền-quý nó hay dựa mé,
Đặng bợ-bưng những kẻ hung-sùng.
Ta thương đời nói những chuyện cùng,
Chẳng có vị có dung kẻ quấy.
Cuộc sám-hối vô chùa thường thấy,
Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.
Thấy dương-gian lường gạt Thánh Thần,
Mà chua xót cho đời Nguơn-Hạ. [410]
Chữ tự hối nào ai có lạ,
Là ăn-năn cải sửa tâm lành.
Phật chẳng qua dụng chữ tín-thành,
Chớ nào dụng Hương, Đăng, Trà, Quả.
Làm chay đám tạo nhiều xá-mã,
Bay về Tây nói những chuyện gì?
Thấy chúng tăng làm chuyện quái kỳ,
Ta khuyên mãi cũng không chịu bỏ.
Lời chơn-chánh hình như nói xỏ,
Mà không không nào có biếm đời. [420]
Thấy lạc-lầm khuyên nhủ ít lời,
Chớ nào có ngạo chi tăng chúng.
Coi tâm kệ làm theo mới trúng,
Để lạc-lầm lắm bớ tăng-đồ!.
Định tâm-thần như mặt nước hồ,
Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối.
Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,
Ghi vào lòng sáu chữ Di-Đà.
Thì hiền-lương quên mất điều tà,
Đặng hạnh-phúc nhờ lòng cố-gắng. [430]
Việc đạo-đức bất cần thối thắng,
Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi.
Thấy Thiên-cơ khó nỗi yên ngồi,
Thương lê-thứ tới hồi khổ-não.
Thầy lạc tớ không ai chỉ bảo,
Như vịt con dìu-dắt nhờ gà.
Phải nghĩ suy cạn lẽ mới là,
Nay gặp gốc phải mau tìm gốc.
Để gặp Phật ngồi mà than khóc,
Gỡ làm sao hết rối mà về. [440]
Mắt nhìn xem yêu quái bốn bề,
Bởi ác đức nên không ai cứu.
Mang thủy ách hồi năm Đinh-Sửu,
Đến năm nay tái lại một lần.
Khổ ách nầy đặng thức-tỉnh trần,
Rằng thiên-định tuồng đời sắp hạ.
Trẻ nhỏ tuổi đời nầy lăng-mạ,
Bị văn-minh cám dỗ loài người.
Kể từ rày cười một khóc mười,
Kẻo chúng nó dể-ngươi Phật Thánh. [450]
Đạo Quỉ-Vương rất nhiều chi ngánh,
Khuyên dương-trần sớm tránh mới mầu.
Để ngày sau đến việc thảm-sầu,
Rán nghe kỹ lời Ta mách trước.
Thuyền chúng nó thẳng buồm chạy lướt,
Lọt ngoài khơi mới hết hò khoan.
Tu mà ham cho được giàu sang,
Với quyền tước là tu dối thế.
Nhớ thuở trước vua Lương-Võ-Đế,
Tạo chùa-chiền khắp nước tu hành. [460]
Đến chừng sau ngạ tử Đài-thành,
Phật bất cứu vì tâm còn ác.
Tu biết cách như đươn biết đát,
Đươn đát rành đặng dựa Xe-Loan.
Ai biết nghe thì sớm liệu toan,
Để đến việc như người thất nghiệp.
Phải qui căn cùng nhau hội hiệp,
Rán mau chơn mới kịp Đạo-mầu.
Sớm với chiều gắng chí nguyện-cầu,
Thì sẽ được Tòa-Chương dựa kế. [470]
Chúng-sanh thể như gà thất thế,
Phải nằm chờ tới nước bắt ra.
Thời-kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma,
Trời mở cửa Quỉ-Vương xuống thế.
Nên Ta mới ra tay cứu-tế,
Kẻo chúng-sanh bịnh khổ quá chừng.
Sau Quỉ-Vương đi đứng nửa lừng,
Thêm tên tuổi chúng-sanh nó biết.
Làm đủ cách xuống lên tha-thiết,
Ở ngoài đường nó biết tên mình. [480]
Tin cùng không thì cũng mặc tình,
Chớ Ta lắm công trình dạy-dỗ.
Hồi thuở trước Thích-Ca Phật-Tổ,
Ngồi tham-thiền bị nó ghẹo hoài.
Mà cũng không rúng động đặng Ngài,
Nên cố oán phá đời mãi mãi.
Trong bổn-đạo cùng là sư vãi,
Rán bền lòng cho được hiền từ.
Hết khổ lao thì đến vui cười,
Chừng đó mới phỉ tình nguyện ước. [490]
Bọn gái mới ra đường tha-thướt,
Bỏ hết trơn nề-nếp ông cha.
Khác tánh-tình người cổ nước ta,
Nên phải chịu đớn-đau đủ cách.
Trai với gái rán coi sử sách,
Đứng trung thần với kẻ tiết-trinh.
Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh,
Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt.
Dạy chẳng đặng lòng như lửa đốt,
Khắp dương-gian chưa đặng ba phần. [500]
Kể từ nay Tiên, Phật, Thánh, Thần,
Lo dạy-dỗ dương-trần chẳng xiết.
Đức Thượng-Đế ngự đền Ngọc-Khuyết,
Nhìn dương-gian cũng luống thở dài.
Thấy chúng- sanh trau-trỉa mặt mày,
Chớ chẳng chịu trau tâm trỉa tánh.
Kẻ đói khó người sang hay lánh,
Bước lại gần chê lũ tanh-hôi.
Cõi ta-bà Ta thấy hỡi ôi!
Sầu bá-tánh quá nên kiêu-cách. [510]
Người tàn-tật đui-cùi đói-rách,
Ít có ai để mắt nhìn vào.
Chuộng những người dù võng sắc màu,
Cậu với mợ, ông-thầy, cô-bác.
Thị kẻ khó như rơm như rác,
Ta quá rầu đài-các văn-minh.
Mấy ai mà giữ dạ sắt-đinh,
Theo Tông-Tổ của mình thuở trước?
Đầu với tóc áo quần láng-mướt,
Chữ lanh khôn của quỉ của ma. [520]
Chớ nó không có giống người ta,
Ma với quỉ sanh người hung ác.
Lo tâp luyện những câu đờn hát,
Chớ chẳng lo dạy-dỗ ngu-khờ.
Để cái tâm yên-lặng như tờ,
Coi Ta nói câu nào bất chánh?
Rán bắt chước làm theo Phật Thánh,
Nếu thiệt người thì biết thương người.
Thấy kẻ khờ quê dốt ngạo cười,
Nào có lấy lời chi chỉ bảo. [530]
Ta thương xót lo tần lo tảo,
Chẳng thấy ai rể thảo dâu hiền.
Làm cho người Thượng-Cổ thêm phiền,
Rất đau xót cho nòi cho giống.
Biết chừng nào được qui nhứt thống,
Khắp hoàn-cầu dân biết thương nhau.
Nhắc ra thì dạ ngọc đớn-đau,
Không nhắc đến biết đâu dân sửa.
Cơm được chín ta nhờ có lửa,
Dân được vui nhờ lúc khải-hoàn. [540]
Phật Như-Lai cho phép Khùng troàn,
Cho bổn-đạo khắp nơi đặng biết.
Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn-hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù-oán.
Việc hung-ác hễ vừa thấp-thoáng,
Chữ từ-bi ta diệt nó liền.
Sự oán-thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù-oán tiêu-tan mất hết. [550]
Chữ bạn tác dầu cho đến chết,
Cũng keo-sơn gắn chặt mới là.
Bước ra đường ăn nói thiệt-thà,
Dầu khôn-khéo cũng là giả dại.
Nếu tranh-đương ắt ta bị hại,
Thêm sa-cơ lại bị xích-xiềng.
Vì đời nay chúng nó dụng tiền,
Ít ai dụng chữ nhơn chữ nghĩa.
Theo học Đạo mặc ai mai-mỉa,
Ta cũng đừng gây-gổ với người. [560]
Được mấy điều thì đáng vàng mười,
Thiệt hiền-đức có ai mắng chửi.
Xưa đức Thánh luận bàn cái lưỡi,
Ngài nói rằng các việc tại mầy.
Thuận với hòa hay ghét với rầy,
Cũng cái lưỡi làm thầy các việc.
Phải kiếm cách đặng ta trừ tuyệt,
Lấy tâm thần làm chủ mới mầu.
Cũng chẳng nên theo tánh võ-hầu,
Thấy chẳng nói mà nhăn mà nhướng. [570]
Hãy liệu sức chớ nên nói bướng,
Dầu việc chi liệu lượng mà làm.
Điên Khùng nầy chẳng có nói xàm,
Nói những chuyện từ-bi bác-ái.
Nếu bổn-đạo còn ai làm sái,
Coi kệ này mình sửa lấy mình.
Ta không tranh mà cũng không kình,
Cho bá-tánh gièm-pha thỏa chí.
Ai làm phước in ra mà thí,
Thì được nhiều hạnh-phúc sau nầy. [580]
Chốn non xanh dạy-dỗ cáo-cầy,
Xuống trần-thế ra tay dắt chúng.
Tới với Ta chớ đem đồ cúng,
Chỉ đem theo hai chữ thành-lòng.
Chẳng có cần trà, quả, hương nồng,
Mong sanh-chúng từ-lòng hối-ngộ.
Kẻ xa-xuôi có lòng ái mộ,
Xem Kệ nầy tu tỉnh tại nhà.
Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà,
Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc. [590]
Chay bốn bữa ấy là quy-tắc,
Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng-sanh.
Con Phật thì chẳng có khôn lanh,
Đời văn-vật khôn ma khôn quỉ.
Lo trang-sức kim-thời huê mỹ,
Rồi phụ-phàng tục cổ nước nhà.
Trong tâm thì chứa chữ gian-tà,
Chớ chẳng chứa tấm lòng bác-ái.
Học chữ nghĩa cho thông cho thái,
Đặng xuê-xang đài-các xe-tàu. [600]
Tiếng chào mừng cửa miệng làm màu,
Trong tâm-ý mưu-mô đủ thế.
Ta còn mắc phiêu-lưu dương-thế,
Dạo Lục-Châu đặng cứu bá-gia.
Mặc tình ai xem kệ ngâm-nga,
Hay sửa-đổi tùy lòng hưu-hỷ.
Thương sanh-chúng tỏ bày quá kỹ,
Hỡi dương trần nên sớm quày đầu.
Đặng sau xem Phật-pháp nhiệm-mầu,
Với báu-quí đài-lầu tươi-tốt. [610]
Xác Ta vốn là người quê dốt,
Nên mở mang chưa được mấy rành.
Khắp dương-gian như sợi chỉ mành,
Mong bổn-đạo tâm thành trở lại.
Dầu cực-khổ thân nầy chẳng nại,
Chẳng cần ai bái lạy khẩn-cầu.
Bỏ dị-đoan mới thấy Đạo-mầu,
Bớt giả-dối gặp Người Thượng-Cổ.
Gốc thuở trước của Tông của Tổ,
Đâu có bày dối-mị như vầy. [620]
Những sấm truyền xưa của Phật Thầy,
Dân rán kiếm mà truy thì biết.
Xưa để lại nhiều câu thảm-thiết,
Mà nào ai có biết để lòng.
Chuyện Thiên-Cơ nói rất não-nồng,
Câu hữu lý bá tòng khó sánh.
Chốn tựu hội chớ nên léo hánh,
Vì lời xưa có dặn rạch-ròi.
Dân chớ nên phụ bạc giống nòi,
Thì lao-lý tấm thân vô ích. [630]
Phải nhẫn-nhục chờ Người Cổ Tích,
Phật với Trời phân định cho Ta.
Người xưa tuy ít chữ nôm-na,
Chớ chơn-chất người ta ngay thẳng.
Dạy bổn-đạo lấy câu trung đẳng,
Chẳng nói cao vì sắp rốt đời.
Đấng nam-nhi ẩn-nhẫn tùy thời,
Vậy mới gọi khôn-ngoan hữu chí.
Ta ra sức viết câu huyền-bí,
Chúng dân ôi ! Rán kiếm rán tầm. [640]
Giống thú kia là loại sanh cầm,
Mà còn biết kiếm tầm đạo-đức.
Thú-vật biết tu-hành náo-nức,
Còn người sao chẳng rứt hồng-trần ?
Việc tu-hành phải vẹn nghĩa ân,
Kinh với sấm chúng dân thường thấy.
Chữ Bát-Chánh rõ-ràng trong giấy,
Là chơn truyền của Đức Thích-Ca.
Người tu hành cần phải tìm ra,
Cho dân biết mục đầu Chánh-Kiến. [650]
Trí linh-mẫn nhìn xem các chuyện,
Phải đừng cho lầm-lạc nẻo tà.
Dầu việc người hay việc của ta,
Nên phán-đoán cho tường cho tận.
Tội với phước xét coi nhiều bận,
Mới khỏi lầm tà-kiến đem vào.
Chánh Tư-Duy mục ấy thanh-cao,
Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ.
Trên cùng dưới dầu thầy hay tớ,
Cũng tưởng điều trung-chánh mới mầu. [660]
Việc vui say mèo-mả đâu đâu,
Hãy dẹp gác nhớ câu Lục-Tự.
Câu Chánh-Nghiệp cũng là quá bự,
Dầu nghề chi làm việc ngay đường.
Ta đừng nên theo kẻ bất lương,
Học ngón xảo để lừa đồng loại.
Chánh Tinh-Tấn dầu thành hay bại,
Cứ một đường tín-ngưỡng của mình.
Dầu cho ai phá rối đức tin,
Ta cũng cứ một đàng đi tới. [670]
Mục Chánh-Mạng chúng sanh ơi hỡi,
Cho hồn-linh cai-quản châu-thân.
Lấy chơn-nhơn dẹp tánh phàm-trần,
Mới có thể mong về Cực-Lạc.
Câu Chánh-Ngữ lòng son ghi tạc,
Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường.
Nói những điều đức-hạnh hiền-lương,
Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi.
Việc tráo-chác ấy là nguồn cội,
Lời xảo ngôn do đó mà ra. [680]
Kinh-nghiệm rồi Ta mới diễn ca,
Câu Chánh-Niệm thiết-tha nhiều nỗi.
Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi,
Phải làm tròn các việc vẹn toàn.
Dân chớ nên làm bướng làm càn,
Trong lúc ấy niệm cho lấy có.
Mục Chánh-Định thiệt là rất khó,
Giữ tâm lòng bất động như như.
Cho hồn-linh yên-lặng an-cư,
Thì mới được huờn-nguyên phản-bổn. [690]
Tà với chánh còn đương trà-trộn,
Người muốn tu phải sớm lọc-lừa.
Tứ-Diệu-Đề ai có mến ưa,
Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa.
Chữ Tập-Đề nay đà mở cửa,
Để đem vào khuôn-khổ người hiền.
Rán cực lòng một bước đầu tiên,
Sau mới được làm nên Phật-Thánh.
Về Thượng-Giái cõi Tiên mới bảnh,
Đến Diệt-Đề trừ vật-dục xưa. [700]
Cõi hồng-trần các việc mến ưa,
Sự giả tạm ta nên rứt bỏ.
Muốn tâm-tánh ngày kia sáng tỏ,
Thì Khổ-Đề phải chịu nhọc-nhành.
Lòng dục tu thì phải thiệt-hành,
Chớ đừng có ham điều sung-sướng.
Đức Phật-Tổ nào đâu hẹp lượng,
Chịu nhọc-nhằn mới rõ Đạo-Đề.
Thấy một đàng thẳng-bẳng mà mê,
Ôi chừng đó mới là mầu-nhiệm. [710]
Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm,
Trễ thời kỳ khó gặp đặng Ta.
Rồi hành luôn Bát-Nhẫn mới là,
Thì muôn việc đều an bá tuế.
Chữ thứ nhứt Nhẫn-Năng-Xử-Thế,
Là người hiền khó kiếm trong đời.
Lập thân danh tuần trải nơi nơi,
Chờ thời-đại mới là khôn khéo.
Chữ Nhẫn-Giái trì tâm trong trẻo,
Khuyên dương-trần giữ phận làm đầu. [720]
Nhẫn-Hương-Lân cùng khắp đâu đâu,
Trên cùng dưới đều hòa ý hỉ.
Nhẫn-Phụ-Mẫu gọi trang hiền sĩ,
Phận xướng-tùy chồng vợ nhịn nhau.
Nhịn xóm-chòm cô bác mới cao,
Nhẫn-Tâm nọ ngày ngày an-lạc.
Nhịn tất cả những người tuổi tác,
Nhẫn-Tánh lành yên-tịnh dài lâu.
Giữ một lòng hiền-hậu mới mầu,
Quanh năm cũng bảo toàn thân-thể. [730]
Chữ Nhẫn-Đức kể ra luôn thể,
Thì trong đời vạn sự bình an.
Chữ Nhẫn-Thành báu-quí hiển-vang,
Khắp bá-tánh được câu hòa-nhã.
Câu Đạo-đức bay mùi thơm lạ,
Muốn nếm thì phải rán sưu tầm.
Các Đạo tà mưu khéo âm thầm,
Dân rán tránh kẻo lâm mà khổ.
Chúng nó xuống khuyên-răn nhiều chỗ,
Dùng phép mầu loè mắt chúng-sanh. [740]
Ai ham linh theo nó tập-tành,
Sa cạm-bẫy khó mong sống sót.
Ta chẳng phải dùng lời chuốt-ngót,
Mà làm cho dân-chúng say mê.
Nẻo chánh tà biện-luận nhiều bề,
Cho bá-tánh tìm nơi cội-gốc.
Lựa cho phải kèo xưa danh mộc,
Đừng để lầm thợ khéo sơn da.
Thì sau này đến lúc phong-ba,
Dông gió lớn cột kèo khỏi gãy. [750]
Thấy sanh-chúng nhiều người khờ dại,
Chẳng biết gìn phong-hóa lễ-nghi.
Nên ta đem đạo đức duy-trì,
Gìn tục cổ để người chẳng rõ.
Còn chậm-chạp Đạo-mầu chưa tỏ,
Như rừng hoang mới dọn một đường.
Tớ với Thầy nào quản thân lươn,
Muốn cứu thế sá chi bùn trịn.
Thương quá sức nên Ta bịn-rịn,
Quyết độ đời cho đến chung thân. [760]
Nếu thế-gian còn chốn mê tân,
Thì Ta chẳng an vui Cực-Lạc.
Dạy bổn-đạo lấy lời đích-xác,
Mà chẳng tu là bởi không ưa.
Chớ nước sâu mà bị gàu thưa,
Dân đông-đảo lời truyền chẳng xiết.
Nên phải tạm mượn cây ngòi viết,
Đem Đạo-mầu như hạn cho mưa.
Đặng tố-trần tâm ý Người Xưa,
Chữ thậm thâm trong kinh Phật-Giáo. [770]
Nền chơn lý chúng chê rằng láo,
Mà nào Ta có lợi-dụng ai.
Trong bá-gia nhiều ít lòng chay,
Để giữ trọn trong nền Phật-Pháp.
Gìn giới cấm sửa tâm ô-tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà.
Nhớ từ-bi hai chữ ngâm-nga,
Dầu làm lụng cũng là trì chí.
Chờ Thiên-Địa châu-nhi phục-thỉ,
Như đời xưa có gã Tử-Phòng. [780]
Xem thời cơ người đã rõ thông,
Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh.
Đời vật-chất văn-minh tranh-cạnh,
Chữ lợi quyền giựt-giết lẫn nhau.
Động lòng hiền chư Phật đớn-đau,
Cho kinh sấm dạy-răn trần-thế.
Nhìn thấy chuyện gạo châu củi quế,
Nghèo bạc vàng đạo-đức cũng nghèo.
Ta xuống trần nhằm lúc nạn eo,
Nên phải bị kẻ hung khinh-bỉ. [790]
Vì bác-ái nên thân Cuồng-Sĩ,
Phải chịu điều khổ hạnh sâu-xa.
Mong cho đời gặp lúc khải-ca,
Trong bốn biển thái bình mới toại.
Phật, Tiên, Thánh, lòng nhơn hà-hải,
Những ước-ao thế-giới hòa-bình.
Nên khuyên đời truyền-bá sử-kinh,
Cho sanh-chúng sửa mình trong sạch.
Giàu đổi bạn khinh-khi kẻ rách,
Là những câu trong sách Minh-Tâm. [800]
Tánh kẻ sang đổi vợ nào lầm,
Thánh-nhơn để nhiều câu hữu-lý.
Có mấy kẻ ăn-năn xét kỹ?
Mãi ỷ tài chê bướng chê càn.
Thì ngày sau đừng có trách than,
Những tội lỗi của mình tạo lấy.
Bị háo-thắng việc người không thấy,
Rồi mảng lo gièm-siểm nhiều lời.
Vì vậy nên tình nghĩa xe lơi,
Đâu gần-gũi mà tường diệu lý. [810]
Trong Lục-Tỉnh ai là người trí,
Mau thức thời tìm Đạo nhiệm-sâu.
Khuyên dân đừng chia áo rẽ bâu,
Phải hợp tác gieo trồng giống quí.
Coi rồi phải thân mình tự-trị,
Chẳng độ xong Phật khó dắt-dìu.
Thả thuyền Từ bến Giác nâng-niu,
Kẻ hiểu Đạo mau mau bước xuống.
Việc trải qua như mây gió cuốn,
Nhìn cuộc đời ngày tháng thoi đưa. [820]
Trời sáng ra kế lại thấy trưa,
Năm cũ đó rồi qua năm mới.
Mười hai tháng mà còn mau tới,
Thì tuồng đời cũng chóng đổi thay.
Chữ phù-vân phú-quí nay mai,
Luân với chuyển dời qua đổi lại.
Cõi Ta-Bà mấy ai tồn-tại,
Sống dư trăm như tuổi lão Bành.
Đời Hạ-Nguơn hay chết tuổi xanh,
Như thuở trước Nhan-Hồi còn trẻ. [830]
Miễn cho được ngày hai cơm tẻ,
Buổi bần hàn đặng có tu thân.
Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,
Xem chung cuộc Phong-Thần tại thế.
Xử những kẻ hung-hăng tồi-tệ,
Thưởng những người trung-nghĩa vẹn toàn.
Ra Kệ này hai chữ bảo-an,
Cho trần-thế được tâm thanh-tịnh.
Ngọc báu quí ẩn trong Nam-đỉnh,
Muốn tìm kim đáy biển gắng công. [840]
Thấy dân tình luống những ước-mong,
Gặp giống tốt hãy mau cày cấy.
Ai có nói Ta là người quấy,
Ta cũng cam bụng chịu tiếng lời.
Tỏ ít câu cầu chúc cho đời,
Mong bá-tánh vạn dân giải-thoát. [846]
—-oOo—-
05 – Khuyến thiện của Ông Vô Danh Cư-Sĩ (quyển 5) [trở lại đầu trang]
KHUYẾN THIỆN
Lời khuyến-thiện của ông “VÔ DANH CƯ-SĨ”
*Đây là quyển thứ năm mà
Đức Thầy đã viết năm 1941
tại Chợ Quán (756 câu).
Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
Theo đòi nghiên-bút luận bàn tục, Tiên.
Ta là cư-sĩ canh điền,
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
Xa nơi tranh-đấu lợi-danh,
Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria.
Gắng công trì niệm sớm khuya,
Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.
Chí toan gieo giống Bồ-Đề,
Kiếm người lương thiện dắt về Tây-phang. [10]
Dạy khuyên những kẻ ngỗ-ngang,
Biết câu Lục-tự gìn đàng Tứ-ân.
Ở trần xử trọn nghĩa-nhân,
Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên-Đài.
Cầu cho mối Đạo hoằng-khai,
Cầu cho trăm họ Bồng-Lai được gần.
Sớm về cõi Phật an-thân,
Kẻo kiếp phong-trần dày gió dạn sương.
Phật-đài phưởng-phất mùi hương,
Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu. [20]
Từ-bi oai-lực nhiệm sâu,
Độ con thoát chốn ưu-sầu trần-ai.
Nam-mô Thích-Ca Như-Lai,
Ta-Bà Giáo-Chủ xin Ngài chứng-minh.
Dưới đây lược tả sách kinh,
Cho trong nam nữ hữu tình thì coi.
Lời lành của Phật truyền roi,
Đọc qua suy nghiệm xét soi chánh tà. [28]
THI
Tiếng kệ từ-bi quá diệu-trầm,
Diệt lòng tham vọng diệt thinh-âm.
Trần-gian say-đắm theo màu-sắc,
Tịnh-độ giác-thuyền trị dục-tâm.
Phải rõ nghiệp-duyên trần cấu tạo,
Nghe rành chánh-pháp thoát tà-dâm.
Phù-sanh nhược mộng đời lao khổ,
Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm.
***
Hào-quang chư Phật rọi mười phương,
Đạo pháp xem qua chớ gọi thường.
Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn giữ tánh thuần-lương.
KỆ
Lòng quảng ái xót thương nhân chủng,
Buổi lố-lăng Phật-Giáo suy đồi. [30]
Kẻ tu hành ai nỡ yên ngồi,
Mà sớm kệ chiều kinh thong thả.
Mình đã gặp con thuyền Bát-Nhã,
Có lý nào ích-kỷ tu thân?
Phật-Tổ xưa còn ở nơi trần,
Ngài gắng sức ra công hoằng-hóa.
Nền Đại-Đạo lưu thông khắp cả,
Bực tiên hiền đều trọng Phật-gia.
Rèn dân bằng giáo-thuyết bình-hòa,
Giống bác-ái gieo sâu vô tận. [40]
Sau nhằm buổi phong-trào tân-tấn,
Đua chen theo vật-chất văn-minh.
Nên ít người khảo xét kệ-kinh,
Được dắt chúng hữu-tình thoát khổ.
Thêm còn bị lắm phen dông-tố,
Lời tà-sư ngoại-đạo gieo vào.
Cho nhơn-sanh trong dạ núng-nao,
Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
Dùng thế-lực dùng nhiều mánh-khoé,
Cám-dỗ người đặng có khiến sai. [50]
Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,
Để khốn-khổ mặc ai trối kệ.
Mắt thấy rõ những điều tồi-tệ,
Tai thường nghe lắm giọng ru người.
Thêm thời này thế kỷ hai mươi,
Cố xô sệp thần (thánh) quyền cho hết.
Người nhẹ dạ nghe qua mê-mết,
Rằng: nên dùng sức mạnh cạnh-tranh.
Được lợi-quyền lại được vang danh,
Bài-xích kẻ tu hành tác phước. [60]
Làn sóng ấy nhiều người đón rước,
Dục dân tâm sôi-nổi tràn-trề.
Cổ tục nhà phỉ-báng khinh-chê,
Cho tôn-giáo là mùi thuốc phiện.
Ai nếm vào ắt là phải nghiện,
Chẳng còn lo trang võ đấu chinh.
Lấy sắc-thân dẹp nỗi bất-bình,
Bỏ đức-tính của câu nhơn-quả.
Dầu ai có bền gan sắt-đá,
Cũng động lòng trước cảnh ngửa-nghiêng. [70]
Đạo diệu-mầu gặp lúc truân-chuyên,
Phận môn đệ phải lo vun quén.
Tằm sức nhỏ còn làm nên kén,
Người không lo có thẹn hay chăng ?
Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
Với tín-nữ thiện-nam Phật-Giáo.
Nên cố-gắng trau thân gìn Đạo,
Hiệp cùng nhau truyền-bá kinh lành.
Làm cho đời hiểu rõ thinh-danh,
Công-đức Phật từ-bi vô lượng. [80]
Đồng dẹp bớt âm-thinh sắc-tướng,
Lo chấn-hưng Phật-Pháp mới là.
Nói cho đời hiểu Phật Thích-Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
Ta cũng chẳng hoàn-toàn thông-thạo,
Nhưng phân cùng bổn-đạo xa gần.
Có một điều già trẻ ân-cần,
Là phải biết nguyên-nhân Phật-Giáo.
Hồi thế-kỷ khoảng trong thứ sáu,
Trước kỷ-nguyên tây-lịch thời xưa. [90]
Pháp Giáo chưa biệt-lập tam thừa,
Thuở Trung-Quốc nhà Châu Chiêu-Đế.
Bên Ấn-Độ thành Ca-Tỳ-La-Vệ,
Có đức vua Tịnh-Phạn nhơn từ.
Khắp thần dân lạc nghiệp an-cư,
Trên chúa thẳng tôi ngay phò tá.
Đức Hoàng-Hậu Ma-Da phong-nhã,
Sắc đẹp dường ngọc thốt hoa cười.
Một hôm kia vẻ mặt vui tươi,
Đến trước bệ tâu cùng thánh thượng. [100]
Rằng: Thần thiếp nhờ ơn chung hưởng,
Của hoàng-gia cũng được vinh-quang.
Kể từ nay thiếp muốn an nhàn,
Dưỡng tâm-trí lần xa thế trược.
Chẳng phiền kẻ hầu sau đón trước,
Chỉ trừ người ý hiệp tâm đầu.
Xin một điều ở chốn long lâu,
Tập đức tánh khoan-dung đại độ.
Tránh tất cả những điều thô-lỗ,
Chẳng ưa gần kẻ bạo ngang-tàng. [110]
Thiếp cúi đầu ngưỡng vọng Thiên-nhan,
Phê cho thiếp những điều xin ấy.
Vua nghe xong vội-vàng đứng dậy,
Bèn chuẩn y tỏ ý vừa lòng.
Bà tâu thêm ở trước đền rồng,
Xin Thánh-thượng bao-dung kẻ khó.
Lòng yêu dân ví như con đỏ,
Tội giảm tha, đói giúp cơm tiền.
Cứu dân nghèo trong lúc đảo điên,
Lấy đức rộng bủa trong bá-tánh. [120]
Vua hứa chịu giúp người đói lạnh,
Bà lui về cung điện nghỉ-ngơi.
Đêm trăng thanh gió mát thảnh-thơi,
Tiết hòa-thuận khắp nơi hoa nở.
Đức Hoàng-hậu trong lòng hớn-hở,
Giấc chiêm-bao Bà thấy lạ-lùng.
Bạch-tượng từ ở chốn không trung,
Bỗng sa xuống mình Bà hối-hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi hương. [130]
Bà rảo chơn bèn bước ra vườn,
Truyền thị-vệ thỉnh vua lai đáo.
Vua y lời đến nơi hoa thảo,
Lại gần Bà sao rất quái-kỳ.
Tay chơn bèn run-rẩy một khi,
Muốn quì xuống mắt dường tăm-tối.
Tiếng Thần Tiên trên không ca trổi,
Rằng ta mừng vua hữu thiện căn.
Sắp có con thế giới chẳng bằng,
Sau người ấy lập nên Đạo cả. [140]
Vua nghe xong cúi đầu bái tạ,
Liền phán cùng Hoàng-hậu Ma-Da.
Có việc chi vội-vã dời ta,
Khá nói lại đầu đuôi tường tất.
Bà thuật rõ chiêm bao trong giấc,
Xin vua vời ít kẻ bàn giùm.
Các thầy bàn được lịnh vào cung,
Nghe xong-xả tâu rằng điềm quí.
Ngày thắm-thoát đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh Thái tử đẹp tươi. [150]
Mặt trang-nghiêm khí-phách hơn người,
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ.
Họ Thích-Ca từ đây cũng ngỡ,
Sẽ có người nối nghiệp hoàng-gia.
Liền đặt tên là Sĩ-Đạt-Ta,
Cả triều chính treo hoa yến ẩm.
Có nhà sư cách thành mấy dặm,
Thường ở ăn trong sạch hiền-từ.
Lòng thẳng ngay chẳng có vị tư,
Đời thanh tịnh gìn theo Đạo-lý. [160]
Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ,
Hiểu thiên-cơ thấu mối diệu-huyền.
Ông là người Bà-la-môn tiên,
A-Tư-Đà tiên hiền tên lão.
Thời buổi ấy vua ưa người Đạo,
Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng.
Xin vua cho ông bước vào trong,
Được yết-kiến tử-hoàng luôn thể.
Ông xem xong bỗng liền sa lệ,
Vẻ mặt buồn chẳng thốt ra lời. [170]
Thấy lạ-lùng vua bước đến nơi,
Liền phán hỏi bảo ông phân rõ.
Trước cung-điện ông liền bày tỏ,
Rằng tử-hoàng chừng được thành nhơn.
Lìa đền-đài khổ-cực chẳng sờn,
Tìm Đạo-lý dắt-dìu sanh-chúng.
Ngài sẽ được thế-gian ca tụng,
Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn.
Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn,
Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết. [180]
Cả hồng-trần đau-thương thống-thiết,
Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân-hồi.
Vô phước nên tủi bấy phận tôi,
Chớ chẳng có điều chi lo ngại.
Đức Hoàng-hậu đến ngày thứ bảy,
Dứt nợ trần nên vội qui tiên.
Có bà dì thay thế mẹ hiền,
Giùm săn-sóc trông-nom Thái-tử.
Khi lớn lên cho người dạy chữ,
Lúc vào trường chẳng học mà thông. [190]
Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong,
Cho Thái-tử đừng lìa cung-điện.
Hội triều-đình các quan lựa tuyển,
Nàng Du-Gia được chọn kết hôn.
Vua nghĩ rằng muốn tâm yên-ổn,
Chọn cung-phi mỹ-nữ làm trò.
Cất đền-đài lộng-lẫy đẹp to,
Ngày ca múa đêm bày lơi-lả.
Lòng Thái-tử cũng không xiêu-ngả,
Ra khỏi đền du ngoạn một khi. [200]
Buổi đầu tiên gặp những chuyện gì,
Gặp cụ lão tay nương gậy chống.
Ngài xem qua lòng bèn cảm-động,
Lần thứ hai thấy kẻ ốm đau.
Xét cõi trần trong dạ héo xào,
Chi xiết nỗi núng-nao cõi tạm.
Lần thứ ba xe lìa khỏi trạm,
Được trông nhìn kẻ chết đang khiêng.
Về đền-đài cảm xúc buồn riêng,
Hằng để trí tầm phương giải-thoát. [210]
Lần thứ tư vừa đi dạo mát,
Bỗng gặp người tốt đẹp trang-nghiêm.
Nào dè đâu Trời đã ứng điềm,
Giả tăng-sĩ gợi lòng Thái-tử.
Ngài hiểu rõ ấy là phận-sự,
Phải xuất gia tầm Đạo mau mau.
Liền quày xe trở lại lai trào,
Xin Vương-phụ lánh xa mùi thế.
Vua buồn thảm dùng lời khóc kể,
Rằng: Cha già biết cậy nhờ ai. [220]
Khuyên con nên ở chốn điện-đài,
Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn.
Lòng Thái-tử quyết theo ý muốn,
Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng.
Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng,
Thân chẳng sá xông-pha bờ bụi.
Ngài thuở ấy nên mười chín tuổi,
Tâm đại-hùng cương-quyết tu-trì.
Trải bao phen lao-khổ xiết chi,
Sau Ngài đến Rạch-Ni Liên-Thuyền. [230]
Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham-thiền,
Ngồi khổ-hạnh sáu năm bên ấy.
Đạo gần đắc Ma-Vương theo khuấy,
Dùng thần-thông nghị-lực dẹp tan.
Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn-toàn,
Và lần bước phô-trương độ chúng.
Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
Các chúng-sanh đều có như Ta.
Bị vô-minh vọng-tưởng vạy-tà,
Nên quay lộn Ta-bà cõi khổ. [240]
Lòng thương chúng thuyết-phương Tịnh-độ,
Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-Quốc.
Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc-sanh.
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành,
Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây-phương hồi hướng,
Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi. [250]
Xét cõi trần sống khổ giạt-trôi,
Vô lượng thứ ở trong thế-giới.
Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại,
Ta-bà khổ, Ta-bà lắm khổ.
Có bao người xét cho tột chỗ,
Tịnh-độ vui, Tịnh-độ nhàn vui.
Cảnh thanh-minh sen báu nặc mùi,
Nào ai rõ cái vui triệt đáo.
Vì phần Ta rất yêu-mến Đạo,
Chẳng nệ chi trí siển tài sơ. [260]
Lấy lời xưa kết lại ít tờ,
Cho thiện-tín rỗi nhàn xem-xét.
Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét,
Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
Thường trau-giồi chí-hướng cao-thanh,
Cho khỏi thẹn con lành Phật-Giáo.
Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo :
Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần.
Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân,
Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc. [270]
Vào bụng mẹ chung quanh bao-bọc,
Có khác nào ở chốn ngục tù.
Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
Ta kể sơ những điều bi-thống,
Mẹ no cơm chật-chội khó-khăn.
Khi ra đời đau-đớn vô ngằn,
Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế.
Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể,
Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân. [280]
Hết tráng-cường đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi,
Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng ?
Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng,
Đeo hành phạt xác thân ô-uế.
Bởi thời-thế chuyển xây biến-thể,
Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa.
Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra,
Thân trằn-trọc hôn mê nhức-nhối. [290]
Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
Còn mang thêm tật nọ tật kia.
Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải.
Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
Có sanh ra khổ-hải đâu chừa.
Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn thân tan-nát.
Gần hấp-hối tâm-thần xao-xác,
Trí vẩn-vơ kinh-sợ vô cùng. [300]
Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
Mà cũng không thoát luật tuần-huờn.
Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi.
Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tỏi,
Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham.
Người trên đời ai cũng lòng tham,
Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của. [310.]
Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa,
Không được thì bực-tức ưu-phiền.
Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên,
Vậy có phải khổ hay là chẳng?
Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,
Người mình thương bỗng lại chia-lìa.
Khi khóc-than nước mắt đầm-đìa,
Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.
Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,
Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên. [320]
Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,
Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái,
Đến xong đời để lại sầu-ưu.
Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
Cũng chung chịu như người tăm-tối.
Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,
Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao,
Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán. [330]
Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,
Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.
Làm cho người đau-đớn âm-thầm,
Khổ như thế diễn ra mãi mãi.
Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,
Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch,
Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười. [340]
Giàu thì lo chen lấn với người,
Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.
Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò.
Lo tước-quyền cho được thơm-tho,
Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.
Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say.
Chẳng tu thân đặng dựa Phật-Đài,
Cho thong-thả hưởng mùi sen báu. [350]
Thần-Thức nhập Thai-Sen tinh hảo,
Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
Thân thì Thân Công-Đức hiền lành,
Bất di dịch khỏi vì khổ lão.
Thể Thanh-Tịnh thường không huyên-náo,
Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.
Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
Ta thoát cuộc lao-đao vì nó.
Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,
Tánh an nhiên bất diệt trường tồn. [360]
Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
Thoát luân-chuyển khỏi đeo khổ tử.
Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
Không nhọc-nhằn lo việc sanh-nhai.
Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật-Đài,
Khỏi quả khổ mưu-cầu-bất-đắc.
Cả Hải-Chúng thảy đều vững-chắc,
Toàn dân lành đâu có đắn-đo.
Dứt ái-ân quyến-thuộc chuyện-trò,
Thoát sống khổ thương-yêu-ly-biệt. [370]
Chữ Hoà-Thuận kể sao cho xiết,
Tâm đồng nhau thượng-thiện vui-vầy.
Cảnh như như chẳng có đổi thay,
Không màng biết phân chia nhơn-ngã.
Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
Khỏi khổ câu oán-ghét-gặp-nhau.
Thân tâm thường-trụ hết rạt-rào,
Chất thô-trược tiêu tan mất cả.
Cõi Tịnh-độ lắm điều thanh-nhã,
Khổ buồn-rầu-lo-sợ chẳng còn. [380]
Chốn Ta-bà tim lụn dầu mòn,
Thân tứ-đại của người cũng thế.
Mau thức-tỉnh tu-thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn-màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới-luật nghe Kinh trọng Phật.
Đến lâm-chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây-Phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện-tín hẫng-hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh. [390]
Môn Tịnh-độ là phương cứu-cánh,
Rán phụng-hành kẻo phụ Phật xưa.
Lòng từ-bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh-chúng.
Trong một nước nhân tài hữu dụng,
Kẻ tu hành đa phước thì nên.
Quyết trau thân tánh-hạnh cho bền,
Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.
Ao sen báu Tây-phương đua nở,
Chờ chúng-sanh niệm Phật chí tâm. [400]
Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,
Được tâm phát Bồ-Đề vững chắc.
Giữ đừng cho Ma-Vương dẫn dắt,
Thường nhớ câu Đại-Lực, Đại-Hùng.
Thắng Thất-Tình giữ vẹn Đạo-Trung,
Trừ Lục-Dục chớ cho ô nhiễm.
Thập-tam Ma diệt bằng trí-kiếm,
Rứt xong rồi vô sự thảnh-thơi.
Biển hồng-trần lao-lý diệu vơi,
Xô đẩy mãi trong vòng Ngũ-Trược. [410]
Thân hôi tanh muỗi, ruồi đón rước,
Thêm nhọt-u, ghẻ lác, phung cùi.
Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui,
Là Kiếp Trược, Ta xin kể trước.
Dòm việc quấy ngắm điều bạo-ngược,
Mắt trông vào những chỗ đê-hèn.
Nào được xem cảnh báu đài sen,
Nghĩa Kiến Trược giải ra như vậy.
Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây,
Thiết mưu-kế toan bề thắng-thối. [420]
Ghi thù oán chưởng điều đáp đối,
Nên ma Phiền-Não Trược đắm say.
Chuyển-luân trong nhân-vật các loài,
Căn mờ-ám làm điều dại-dột.
Chúng-Sanh Trược, Ta đà kể nốt,
Còn thứ năm là Mạng Trược trung.
Số giàu-sang, họa-phước, bần-cùng,
Giàu hoa-nguyệt thung-dung cẩu-thả.
Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
Sang oai-quyền, hối-lộ gần xa. [430]
Nghèo a-dua, bợ-đỡ nịnh tà,
Khó trộm-cướp cũng là nhơ xấu.
Nguyện cùng Phật dứt duyên trần-cấu,
Phải trừ thêm Thập-Ác huyễn thân.
Khuyên nữ nam suy-nghiệm ân-cần,
Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng-Thiệt.
Với người này dùng lời tha-thiết,
Đến kẻ kia đâm-thọc cho gây.
Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy,
Dùng sự thiệt giải-bày tâm trí. [440]
Người choảng nhau tại mình gia vị,
Mà cũng không hưởng được lợi-danh.
Sau rõ ra chúng lại ghét-ganh,
Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.
Ác thứ nhì Ỷ-Ngôn chất-chứa,
Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày.
Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,
Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
Lắc-léo chi có ba tấc lưỡi,
Quan ỷ khôn mạt-sát dân ngu. [450]
Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù,
Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt.
Khuyên bá-tánh giữ-gìn cho chặt,
Đừng để cho quỉ dắt đường cong.
Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng,
Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
Chúng vô phước đời này dốt-nát,
Người khôn-ngoan chỉ-dẫn mới là.
Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra,
Đừng bao-biếm mới là nhơn-thiện. [460]
Tới Ác-Khẩu thứ ba bày-biện,
Tiếng tục-tằn thô-lỗ hung-hăng.
Nào chửi cha, mắng mẹ lăng-xăng,
Chẳng kể đến luân-thường thảo hiếu.
Hăm đánh giết những người hèn yếu,
Hiếp xóm-chòm cô bác chẳng kiêng.
Trong gia-đình chửi rủa liên-miên,
Hết Dương-thế kêu sang Thần-Thánh.
Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
Cõi Long-cung mời thỉnh tối ngày. [470]
Đời ám-u tội trạng thảm thay,
Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.
Gương tổ-phụ còn roi lại đó,
Sao không theo nề-nếp gia-phong.
Chư Thánh-Thần đâu có mất lòng,
Mà kêu réo Đông,Tây, Nam, Bắc ?
Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
Những đàn-bà khe-khắt cháu con.
Kể từ nay phải giữ cho tròn,
Không chừa dứt ắt mang tai-ách. [480]
Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa-ương đeo đắm.
Ác Vọng-Ngữ thứ tư cũng cấm,
Nói thêm thừa huyễn-hoăc đủ điều.
Ghét người thời kiếm chuyện dệt-thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.
Đời bất công mấy ai xem sửa,
Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tòng. [490]
Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
Mà ăn ở nói năng chơn-chất.
Phật từ-bi độ trong nhơn vật,
Là luật kinh dạy rất tinh-tường.
Nếu chẳng nghe hồn vướng tai-ương,
Chừng ấy mới kêu mời khó rước.
Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước,
Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn.
Đã tu hành đừng có bôn-chôn,
Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài cán. [500]
Người hiểu rành mới càng thêm chán,
Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu.
Nói với ai cũng phải lựa điều,
Đừng tráo-chác cho người khinh dể.
Ác Tà-Dâm thứ năm càng tệ,
Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần.
Làm đảo-huyền tất cả quốc-dân,
Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
Từ xưa nay Trời đất đâu dung. [510]
Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
Trai liều-lĩnh điều này nên bỏ,
Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
Gái lẳng-lơ tiếng huyễn lời đờn,
Hoa có chủ đèo-bồng tình mới.
Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,
Bỏ những điều điếm nhục tông môn.
Đứng nam-nhi học lấy điều khôn,
Lòng trung-hiếu gìn theo đạo-lý. [520]
Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,
Cho đẹp mặt Tổ-tiên nòi giống.
Thờ Phật-Đạo tỉnh cơn ác mộng,
Thoát mê-đồ thường phóng quang-minh.
Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh,
Ác thứ sáu ấy là Đạo-Tặc.
Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
Chẳng kể công nước mắt mồ-hôi. [530]
Phá lương dân dạ luống bồi-hồi,
Ngày làm-lụng đêm lo gìn-giữ.
Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
Nào đào tường, khoét vách khuân đồ.
Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
Nay đuốc huệ Từ-Bi đã rọi,
Vào thâm-tâm những kẻ gian phi.
Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
Của phi nghĩa làm chi xong chuyện. [540]
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.
Ác thứ bảy Sát-Nhơn gây vạ,
Tánh hung-hăng đâm chém chặt bầm.
Chất-chứa điều hung dữ trong tâm,
Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
Viết đến đây động lòng rào-rạt,
Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân. [550]
Nào kể chi là đạo Quân-Thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
Lúc nguy-cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết thầy tội ấy đáng không.
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh-đệ cùng nhau xâu-xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt-nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào,
Tình nhơn-loại phân chia yểm-bách. [560]
Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách,
Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn,
Chớ sát hại mạng người như thế.
Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh-Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo-ác.
Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,
Lo thuốc thang khẩn-vái Phật Trời. [570]
Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả.
Đấng Thần-Minh công bình trực dạ,
Đâu ăn lo đổi họa làm may.
Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này,
Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,
Quả bất lành chưa trả vay thêm.
Cầu cho đời sóng lặng gió êm,
Đặng bá-tánh an-nhàn tu niệm. [580]
Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,
Muốn bao gồm của thế một mình.
Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,
Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
Thấy của người thèm khô nước miếng,
Tính làm sao lường gạt lấy đi.
Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
Của thế trần như mật dính dao. [590]
Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
Tham tiền tài thường vướng nạn eo,
Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
Lúc tận số nằm trơ một xác,
Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài.
Không làm cho ta được sống dai,
Lại chẳng bước tiễn đưa một bước. [600]
Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
Lo vun-trồng cội phước về sau.
Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ.
Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
Vật ở trần như bọt nước làn mây.
Thân Ta còn rày đó mai đây,
Của ấy cũng khi tan khi hiệp.
Ác thứ chín Hận-Sân luận tiếp,
Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng. [610]
Nổi lôi đình đâu có định chừng,
Cho ta biết mà toan giữ trước.
Tánh sân-nộ thường làm bạo-ngược,
Nên loài người ở cõi thế-gian.
Giận hờn nhau thù-oán dẫy tràn,
Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
Hơn tự-đắc, khoe-khoang dõng sức,
Phải bị người hềm-khích ghét-ganh.
Thua hổ-ngươi làm chuyện bất lành,
Gây nghiệp dữ oan oan tương báo. [620]
Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,
Phân từ mảnh mới là thỏa dạ.
Diệt được nó tâm trần thong-thả,
Ta thường nên tập tánh khoan-dung.
Thiệt-hành đi đừng có ngại-ngùng,
Tha-thứ kẻ lỗi lầm ngu-xuẩn.
Và nhẫn-nhịn đừng ham tranh-luận,
Khỏi mất lòng tất cả mọi người. [630]
Tánh thuần-lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín-đồ Phật-Giáo.
Nay ta đã quy-y cầu Đạo,
Gây-gổ là trái thuyết từ-bi.
Ác thứ mười đoạn chót Mê-Si,
Nguyên tăm-tối từ hồi vô thỉ.
Màn vô-minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân vật-chất kém hơn,
Chẳng tìm biết tinh-thần đạo-đức. [640]
Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức,
Bịn-rịn đời cực-khổ tang-thương.
Khi nói làm ít chịu suy lường,
Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.
Diệt mê-si phải nương thuyền giác,
Muôn việc làm chính-trực khôn-ngoan.
Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
Làm ngu-muội đọa thân uổng kiếp.
Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
Lóng nguồn chơn Phật tiếp-dẫn cho. [650]
Trồng cây lành vị-quả thơm-tho,
Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
Dầu ai có cười ta khờ-khật,
Cũng đừng phiền xao-lãng chơn tâm.
Mong tiếng kêu thấu đến Tòng-lâm,
Cùng thiện-tín bá-gia hưởng-ứng.
Muốn Phật-Giáo từ đây bền vững,
Đừng riêng lo lợi-dưỡng một mình.
Nếu xuất-gia thì phải hy-sinh,
Cả vật-chất tinh-thần lo Đạo. [660]
Chớ giả-dối mà mang sắc áo,
Mượn bồ-đề chuỗi hột loè người.
Làm cho dân khinh-dể ngạo cười,
Tội-lỗi ấy luật nào dung thứ.
Tu còn ham chay to đám bự,
Đặng thế-gian dưng cúng bạc tiền.
Dối rằng: lo tu-bổ chùa chiền,
Mà làm của xài riêng cho thỏa.
Bảo làm sao dân không sa-ngã,
Nghe lời rù Tông nọ phái kia. [670]
Cả tăng-đồ trong nước chia-lìa,
Riêng pháp-bảo, riêng chùa, riêng Phật.
Trong bá-tánh sầu-thành chất-ngất,
Mãi nghi nan chẳng biết đàng nào.
Lòng mến yêu chẳng nệ công-lao,
Mượn bút mực đôi lời trần thuyết.
Tùy thiện-tín hiểu Ta giả thiệt,
Làm hay không chẳng dám ép nài.
Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
Đồng tiếp-dẫn chúng-sanh giải-thoát. [680]
KỆ:
Đêm thanh hiên nguyệt dựa kề,
Nhìn xem thế-sự não-nề tâm-can.
Từ Ta nương chốn Phật-đàng,
Dứt tâm trần-cấu chẳng màng vinh-huê.
Trần-hoàn thiện-tín còn mê,
Thêm lời giục-thúc gọi về đàng tu.
Dốc lòng vạch ngút mây-mù,
Đặng dìu bá-tánh đường tu chen vào.
Lời Thầy cạn tỏ âm-hao,
Để truyền hậu-thế vàng thau lọc-lừa. [690]
Tu cầu thuận gió hòa mưa,
An-hòa nhơn-vật phước thừa trời ban.
Tu cầu thoát chốn gian-nan,
Cầu trong chư quốc chư bang giao-hòa
Tu cầu yên nước lợi nhà,
Cửu-huyền Thất-tổ Diêm-La thoát hình.
Tu cầu Phật hóa tánh tình,
Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu-dao.
Tu cầu cửa Phật đặng vào
Gót sen thong-thả xiết bao thanh-nhàn. [700]
Tu cầu bịnh tật tiêu-tan,
Từ-bi hỉ-xả Phật ban phép lành.
Tu cầu thoát khỏi tử sanh,
Nương theo Phật-Quốc lời lành hằng nghe.
Cõi trần đừng đắm ngựa xe,
Đeo tuồng mộng-huyễn lập-lòe sắc hương.
Tu cầu trăm họ hiền lương,
Đồng thinh niệm Phật tai-ương chẳng còn.
Tu cầu gia-đạo vuông tròn,
Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền. [710]
Tu cầu thoát khỏi xích-xiềng,
Dựa kề chơn Phật xa miền trần-lao.
Tu cầu chóng hết binh đao,
Gặp đời bình trị xiết bao vui-vầy
Mắt nhìn chư Phật đông dầy,
Thành vàng điện ngọc trò Thầy đăng tiên.
Ai mà muốn đặng phước-duyên,
Nghe lời khuyến-thiện lòng liền phát tâm.
Tu cho rõ mối huyền-thâm,
Qui đầu Phật-Pháp khỏi lâm tai-nàn. [720]
Phước đức quí hơn bạc vàng,
Những người bạc-ác giàu sang ích gì.
Chi bằng ăn ở nhu-mì,
Nghe lời Phật Thánh kính vì người trên.
Hiếu-trung lòng chớ vội quên,
Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên-Đài.
Nam-mô miệng niệm hằng ngày,
Lánh lời dua-mị học rày kệ kinh.
Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn. [730]
Lóng tai nghe rõ tiếng đờn,
Không dây không phím oán hờn cũng không.
Đờn tây rồi lại đờn đông,
Trách trong bá-tánh gặp sông quên nguồn.
Phàm-trần như chỉ rối cuồn,
Mà còn say-đắm theo tuồng lẳng-lơ.
Lời lành mắt lấp tai ngơ,
Đua theo vật-chất hẫng-hờ đàng tiên.
Hố sâu tình-dục lại ghiền,
Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan-tài. [740]
Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
Chỉ có tội phước hỡi còn,
Đến nơi thẩm-phán cửa son Diêm-Đài.
Phước nhiều tiên-cảnh lên rày,
Tội nhiều sa-đọa nhiều ngày thảm-thê.
Chừng ấy mới biết chỉn ghê,
Ăn-năn chẳng kịp khó bề tính-toan.
Ngày nay sớm đến Phật-đàng,
Tu cầu chư Phật cứu an linh-hồn. [750]
Tội tiêu phước hưởng trường-tồn,
Không còn mắc nẻo dại-khôn luân-hồi.
Thấy đời khó nỗi yên ngồi,
Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao.
Nữ nam muốn rõ âm-hao,
Rán trau đức-hạnh ngày sau sẽ tường. [756]
***
Ngôn-từ đạo hạnh ý Thầy khuyên,
Hạnh đức ân-cần rán tập chuyên.
Thất-tổ cửu-huyền nơi chín suối,
Mỉa-mai xa lánh sáu đường duyên.
***
Vô-thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
Danh-ngôn chép để rạch đàng Tiên.
Cư-gia Tịnh-Độ tâm viên-mãn,
Sĩ xuất văn-từ dốc dạy khuyên.
NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
(tam niệm)
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
—-oOo—-
06 – Cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn-đạo (quyển 6) [trở lại đầu trang]
QUYỂN SÁU CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở
CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ĐẠO
LỜI NÓI ÐẦU
Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải bày tường tận tôn-chỉ hành Ðạo của tôi.
Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa-lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn Ðạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không hợp với tinh-thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Ðạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo qui-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xẩy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Ðạo Phật. Như thế chặng phụ công của Ðức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Ðạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải-thoát.
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
HÒA – HẢO
07 – Những điều sơ-lược cần biết của kẻ tu hiền [trở lại đầu trang]
NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC
CẦN BIẾT CỦA KẺ TU-HIỀN
*Đây là quyển thứ sáu mà
ĐỨC THẦY đã viết hồi
Tháng 5 dl 1945 tại Sàigòn.
Đạo Phật từ xưa tới nay luôn luôn phân làm hai hạng người:
1/- Hạng xuất gia.
2/- Hạng tại gia.
HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn-toàn ly-khai với gia-đình, quê hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am cốc, hàng ngày chỉ chuyên lo kinh-kệ, săn-sóc cảnh dà-lam, trau luyện đức lành, dồi mài trí-tuệ hầu giảng giải cho bá-tánh thập phương nghe để quay đầu hướng thiện qui-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia-đình nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến nhà sư là khắp cả nhân loại đại đồng.
Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả thoát kiếp luân-hồi.
HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất-gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý-tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng của nhà Phật và luật Nhân-quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện qui-y, giữ gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng-hộ các sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát.
Đây là hạng người học Phật tu Nhân.
Bàn xét như trên, thấy rằng toàn-thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại tư gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy.
Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật, Thánh Tiên đều dạy sự hiếu-nghĩa làm đầu). Hôm nay đã qui-y đầu Phật, tu-niệm tại-gia, ta hãy cố-gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa.
Đức Thầy TÂY-AN thuở xưa thường khuyến-khích các môn nhơn đệ-tử rằng: Muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn:
1.-Ân Tổ-Tiên cha mẹ,
2.-Ân Đất-Nước,
3.-Ân Tam-Bảo,
4.-Ân Đồng-Bào và Nhơn-Loại (với kẻ xuất-gia thì ân đàn-na thí-chủ).
ÂN TỔ-TIÊN CHA MẸ: Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên, nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ-tiên nữa.
Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm-chỉ nghe lời, chớ nên xao-lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế, ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi-bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa-hảo trong đệ huynh, tạo hạnh-phúc cho gia-đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm-luân.
Còn đền ơn tổ-tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục tông môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai lầm, gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo-nghĩa, rửa nhục tổ-đường.
ÂN ĐẤT-NƯỚC: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ-tiên, cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước, quê-hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền-thụ, ta cảm thấy bổn-phận phải bảo vệ đất-nước khi bị kẻ xâm-lăng giày đạp. Rán nâng-đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng-nghèo, và làm cho được trở nên cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ-cõi vững-lặng thân ta mới yên, quốc-gia mạnh giàu mình ta mới ấm.
Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy-sinh cho xứ-sở. Thảng như không đủ tài lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp đỡ quê-hương, ta phãi rán tránh đừng làm việc gì sơ-xuất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất-nước.
Đó là ta đền ơn cho đất-nước vậy.
ÂN TAM-BẢO: Tam-Bảo là gì? -Tức Phật, Pháp, Tăng.
Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất-nước tạo kiếp sống cho mình Ấy về phương diện vật chất.
Về phương diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng-suốt. Phật là đấng toàn-thiện, toàn-mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh-linh ra khỏi trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng, đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban-bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại-đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin-tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những lời chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với chúng-sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy và đã vun-trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát-triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài Đạo-hạnh vô thượng vô song roi truyền mãi mãi với hậu thế.
Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm cho trí-tuệ minh-mẫn đặng đi đến con đường giải-thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ-bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ-đại của Đức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.
ÂN ĐỒNG-BÀO VÀ NHÂN-LOẠI: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp-đỡ của những kẻ xung-quanh và cái niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.
Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong-vũ. Vui-sướng, ta đồng hưởng với họ. Hoạn-nạn, họ cùng chịu với ta.
Họ và ta cũng một màu da, cũng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc-gia đó. Họ là ai? Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.
Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi-giống roi truyền, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy- biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.
Chẳng những thế thôi, ngoài-đồng bào ta còn có thế-giới người đang cặm cụi cần-lao cung cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân-loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có thể tự-túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong-vũ nhiệt hàn với những lúc ốm đau, nguy biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân-tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng-chủng mình.
Vả lại, cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biêt chủng-tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã-hội mà chỉ đặt vào một Nhân-loại Chúng-sanh.
Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình gây ra tai-hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hòa một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.
Đối với những kẻ xuất-gia qui-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na thí-chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo tâm cung-cấp những vật dụng cần-thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống, rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.
Với quần-sanh, họ mang cái ân rất nặng, cho nên họ phải dìu-dắt sinh linh đi tầm Chân-lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu-cố của Thiện-tính.
08 – Luận về tam-nghiệp [trở lại đầu trang]
LUẬN VỀ TAM NGHIỆP
Sanh ra ở đời, con người dầu muốn dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào môt chữ ĐẠO, đạo của con người kêu bằng Đạo-Nhân và nó là một con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.
Muốn làm tròn Nhân-Đạo, phải giữ vẹn tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam-nghiệp và chừa Thập-ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.
Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:
Thân nghiệp: (tội lỗi do xác thân gây nên);
Khẩu nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);
Ý nghiệp: (tội lỗi do ý tưởng gây nên).
Ba nghiệp-chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây:
Thân nghiệp sanh ba điều ác:
1.-Sát-sanh
2.-Đạo-tặc
3.-Tà-dâm
Khẩu nghiệp sanh 4 điều ác:
1.-Lưỡng-thiệt.
2.- Ỷ-ngôn.
3.-Ác-khẩu
4.-Vọng-ngữ.
Ý nghiệp sanh 3 điều ác:
1.-Tham-lam
2.-Sân-nộ
3.-Mê-si
SÁT SANH.- Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế-giới người hung tàn bạo-ngược, tánh nết liền ô-nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc-ác dữ dằn.
Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi-danh, vì quyền-thế, vì thù hềm, vì háo thắng… nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã-hội, của một quốc-gia; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân-loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.
Tại trào-nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương-tàn tương-sát. Ngoài lê-thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương-tàn rất thường xảy ra trong nhân-loại không ngoài các lý-do đã kể trên. Đó là người đối với người.
Người đối với thú cầm, sanh-vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị-đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo..,) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vào đúng theo sự nhu-cầu cần thiết của các món thực-phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhất là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn-hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai nạn qua khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu và khônng chịu ăn-năn chừa lỗi, tạo-tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.
Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú-vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sinh vật cũng có linh hồn, cùng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại vậy.
Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhất là đối với các gia-súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn.
ĐẠO TẶC.- Câu “Bần cùng sanh đạo-tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô đạo. Những kẻ nầy ngày vẩn-vơ đầu đường xó-chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn-bã của xã-hội nầy, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an-ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của đoạt giựt tài-sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo sự khó, họ phá-hoại hạnh phúc của con người.
Cơ-hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân-xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu-ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa.
TÀ DÂM.- “Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.
Lần dở xem sử-sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn khắp nơi, từ trào-nội cho đến thứ-dân, từ trong gia-đình cho đến kẻ xa người lạ, nó là mầm gây ra biết bao thảm-trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-lộc-Sơn với Dương-quí-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế? Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, nuốn giữ-gìn tiếng tăm của gia-thế, phải đừng để dục tình lôi-cuốn, bắt trước gương xưa trau dồi lòng hiếu trung trinh-tiết.
LƯỠNG-THIỆT.- Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt nầy đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi-vã, gây-gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn-kết, tình thân yêu giữa nhân-loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất-hòa, hiềm-khích.
Để giải-trừ những tai-vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành thật, chánh đáng ; được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác.
Ỷ NGÔN.- Nói đến tội nầy tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo-quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát.
Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ-từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội lỗi.
ÁC KHẨU.- Những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi mắng tục tằn làm ra tội nầy; con chưởi mẹ mắng cha không kể luân-thường thảo hiếu; mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia-đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.
Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô-lỗ làm cho đời sống được êm dịu thanh bay hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm-chỉnh. Đối với con cháu trong nhà không nên nói những điều ác đức; phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.
VỌNG-NGỮ.- Thêm thừa huyễn-hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng-ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân-loại. Thương người nào kiếm cách bào-chữa giấu-giếm sự quấy và thêu-thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Khoe-khoang, tự- đắc, xảo-trá đa-ngôn, những kẻ điêu-ngoa làm cho thiên-hạ khinh-khi miệt-thị.
Muốn tránh những điều khiến cho tư-cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân-chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo-trác với người, bỏ tiếng xảo-ngôn và phải dùng lời chơn-chất.
THAM-LAM.- Tánh tham-lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: Chiến-tranh, cướp bóc, giết người… Tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế… Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những thảm họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giã cướp của sát nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu-linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự-sát chỉ vì sự ham muốn không được thực-hiện, người ta quyên-sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận… Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung hăng bạo-ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sư khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch-Sùng, Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích-đáng lắm ru? Thế nên hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị-kỷ tham lam, lo vun-trồng phước đức, bố thí kẻ nghèo hèn, rán công-phu sám-hối để có thể yên vui nơi miền Cực-Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần nầy.
SÂN-NỘ.- Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém-giết oán-thù nhau. Kẻ thắng kiêu-hãnh, người bại hổ ngươi, nên sự hềm thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công-bình, lẽ phải trái.
Diệt được nó, tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm-lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ, tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm-khích.
MÊ-SI.- Tội ác nầy do sự thiếu óc phán-đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo-bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chơn-lý. Suốt cả đời ngu-muội, chỉ biết mê man theo những vật nhỏ nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin hướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải-thoát.
Hãy xóa bỏ các điều mê-tín, qui-thuận theo tinh thần đạo-đức, lánh chốn mê lầm, tỉnh cơn mộng-huyễn phá tan màn vô-minh che mờ tâm-trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ Bất-diệt, Bất-sanh.
09 – Luận về bát-chánh [trở lại đầu trang]
LUẬN VỀ BÁT CHÁNH
Trừ xong ba nghiệp chướng, hãy làm theo tám điều chánh, và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo-hạnh. Những sự tấn-bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát-Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê-đồ, tấn-triển trên đường Giải-Thoát.
Bát-Chánh gồm có:
1.- Chánh kiến
2.- Chánh tư-duy
3.- Chánh nghiệp
4.- Chánh tinh-tấn
5.- Chánh mạng
6.- Chánh ngữ
7.- Chánh niệm
8.- Chánh định
CHÁNH KIẾN: – Chánh: đúng sự thật – Kiến: thấy, xem xét. Chánh Kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.
Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng-suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán-đoán không công-bình chánh-đáng làm cho kẻ khác bị oan tình. Vì thế mục Chánh Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực-điểm, cách xét đoán tận-tường, tránh cho ta những tà kiến (sự xem xét lầm-lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết rõ ràng, minh bạch, cách phán-đoán được ngay thẳng công-bình.
Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà-mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo-lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.
CHÁNH TƯ-DUY: – Tư-tưởng chơn-chánh.
Sanh ra ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng…; cái tư-tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quây cuồng vào những sự ấy, không thế nào thoát-ly ra được. Ấy về phần tà.
Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế, phải đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm-luân oan-nghiệt. Hãy tin tường Phật Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phước lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường giải-thoát cho mình bằng cách lạc Đạo-an-bần, xả thân tu tỉnh.
CHÁNH NGHIỆP: – Việc làm chánh đáng ngay thẳng.
Đối với kẻ xuất-gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập-định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công-quả cho nhà Thiền, chẳng có việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.
Những kẻ tai gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh-nhai, mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi-phối song cái chi-phối ấy, khác hẳn với kẻ gian-tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo-trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á-phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ, v.v…
Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề-nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy-lạc, hoang-đàng, trà đình tửu-điếm… Họ là đồng lõa mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.
Thế nên mục đích Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.
Kẻ tại gia cư-sĩ chũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.
CHÁNH TINH-TẤN: – Tín-ngưỡng chơn-chánh và lướt tới.
Phái vô-thần-luận thường cho rằng thân xác tức con người. Thân còn tức người còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả-báo luân-hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên biết bao nhiêu mánh-khóe gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo-trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.
Vì vậy mục Chánh tinh-tấn nầy khuyên hãy rán giữ đức-tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín-ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thế lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng-trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn phận giác ngộ trần-gian bỏ những oan trái luân-hồi cay nghiệt. Muốn thế trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới; quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá-tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục căn, lục-trần và rán làm cho tinh-thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện-mỹ: yên-tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế-độ chúng-sanh thoát khỏi luân-hồi quả-báo.
CHÁNH MẠNG: – Sanh-mạng chân-chánh, trong sạch.
Ở đời, người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức-phận cao.
Người ta tìm đủ phương-thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.
Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh-thần bị đen tối; bỏ hết đài-các xa-hoa, thân mình tự chủ đễ tìm chỗ bất diệt bất sanh; thiền định đặt làm thể, trí-tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên-hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.
CHÁNH NGỮ: – Lời nói chơn thật.
Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.
Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy, cũng có nghiệp-chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt (làm cho thiên-hạ bất hòa nhau), Ỷ-ngôn (lời chưởi mắng kẻ dưới tay), Ác-khẩu (tiếng độc ác tục-tằn, chưởi rủa Thần Thánh), Vọng ngữ (nói láo, nói huyễn-hoặc).
Hãy tập lời nói mình cho chân chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo-chác, những tiếng thô-lỗ cộc-cằn, phàm những khi bàn luận việc chi, phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền-lương đức-hạnh và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích-lợi cho chúng-sanh và đều hạp với tinh thần đạo-đức.
CHÁNH NIỆM: – Ghi nhớ sự chân-chánh.
Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng…Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí-não phụng-sự nó. Danh lợi, cảm-tình, uy-quyền, phú-quí … được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.
Để thoát chỗ luân-hồi bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng-niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù-phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần-sanh, bia-tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc-động, các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.
CHÁNH ĐỊNH: – Suy-gẫm chân-chánh.
Con người thường hay có những ý định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên… nghĩa là những ý-định hoàn-toàn nhỏ-nhen thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia-tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác… rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống-cuồng tâm trí theo bả lợi-danh, mùi phú-quí, đi theo những vặt-vụn, tiểu-ti, eo-hẹp.
Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp sống phù-du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền định phá tan màn u-minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn, hết khổ, hết quả báo luân-hồi. Và khi ta dùng sự chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền-não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị-dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát.
10 – Cách thờ-phượng, hành-lễ và sự ăn ở của một tín-đồ PGHH [trở lại đầu trang]
CÁCH THỜ PHƯỢNG, HÀNH LỄ VÀ
SỰ ĂN Ở CỦA MỘT TÍN ĐỒ P.G.H.H.
THỜ-PHƯỢNG
Từ trước đến nay, các chùa chiền đã tạo ra quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ-Bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ phượng ấy tùy theo điều-kiện các nhà sư mà chúng ta cũng có thể sùng-ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào các sự hào nhoáng bề ngoài. Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây-An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức Phật, nên toàn-thể người trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa-hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng tộc và cá-nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô thượng của nhà Phật.
Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ-bái ở ngoài. Còn người nào có cốt Phật trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải ở chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.
Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu-biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu-biểu cho sự tinh khiết, còn nhang, dùng đặng bán mùi uế-trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng.
Ngoài sự thờ Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ và những anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn-tích.
HÀNH LỄ
Chỉ thờ lạy Đức Phật, Tổ-tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi.
Tất cả các hành-động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính toán một cách cẩn thận, đừng làm chuyện ngông-cuồng vô ý thức. Một đừng ỷ lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ lại vào sự cứu-vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ lại sự binh-vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn-Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành-động ngông-cuồng không suy-xét cẩn-thận để đến đỗi thất bại đem đến sự khó khăn, khổ-não rồi trách cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm lạc ấy rất đáng thương hại.
Mỗi người nên lấy trí thông-minh nhận xét Đạo-lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức-tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường-tận. Như thế, mình mới có thể tấn-hóa trên con đường Đạo-đức.
Những điều sơ-lược giải-thích trên đây, mong rằng toàn-thể trong Đạo suy-gẫm kỹ-càng và thực-hiện để bài trừ sự mê-tín ngông-cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư-tưởng thiện-hòa của Phật-đạo được phát-triển mau chóng.
TANG LỄ
Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ; chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:
Bây giờ chúng ta đã qui-y đầu Phật thì phải do sự thành-tâm cầu-nguyện, và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu-sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận-định rằng xác thịt là hư-hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu-sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận nhơn-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện, rồi im-lặng đi chôn.
Về việc cúng kiến ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỷ-niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương-đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít lãng phí cứ làm.
CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT
Mỗi người đứng trước bàn thờ Phật niệm: “Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật” (ba lần), và “Nam-Mô A-Di-Đà Phật” (ba lần).
Vái: “Phật-Tổ, Phật-Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên . . . . . . . . (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ-bi cứu-độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng- sanh miền Cực-lạc!” Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chắp tay niệm:
“Nam-mô Tây phương Cực-lạc thế giới tam-thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp dẫn vong linh A-Di-Đà Phật” (nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: “Tiếp dẫn đạo sư A-Di-Đà Phật“).
NÊN LƯU Ý: Tang-gia đừng nên khóc lóc làm trở-ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.
HÔN NHÂN
Bổn-phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng đáng bằng sự quan-sát tường tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép uổng con mình quá đáng, vì như thế làm cho khốn-khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự-do mà sự thiếu kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng.
Nên bỏ tục-lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông-gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh-đình tốn kém nhiều tiền, làm cho trở nên nghèo khổ.
NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM-CHẾ HOẶC NÊN LÀM
UỐNG RƯỢU. – Phải cữ tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say-sưa sẽ phải tội lỗi.
THUỐC PHIỆN. – Phải cữ tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút, muốn vào Đạo phải bỏ hút rồi mới được nhìn-nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm-chế đặng.
CỜ BẠC. – Phải cữ tuyệt; những kẻ cờ-bạc muốn vào Đạo phải thệ-nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn-nhận. Về sự nầy, chẳng có cuộc vui nào có thể châm-chế đặng.
ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG-SƯ. – Tất cả bổn-đạo nên cung kính các tăng-sư tu hành chân-chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều-chánh lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám…) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp-tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt để và giảng giải cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.
ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN. – Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp-đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình-tượng cho nhiều).
Khi đến chùa cũng phải tôn-trọng sự thờ-phượng trong chùa không nên hủy-báng.
ĐỐI VỚI CÁC TÔN-GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SANH. – Đối với những người theo tôn-giáo khác, không nên động chạm đến cách-thức tu hành của họ, phải kính trọng sự tự-do tín-ngưỡng của họ. Nhứt là không nên ỷ đông hiếp-đáp hoặc nói xấu người ta. Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy, dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn-nhịn họ.
Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đôi đàng có thiện cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng, phải rán hết sức giúp đỡ họ.
ĐỂ TÓC. – Tất cả bổn đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc, vì đó thuộc về phong-tục chớ chẳng phải về tôn-giáo; nhưng sở-dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ-niệm cái phong-tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn-minh cặn-bã của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong-trào tiến-hóa của nước nhà, Thầy cho phép bổn-đạo tự-do cải-cách hầu hòa-hợp với lương-dân cùng tôn-giáo khác.
SỰ HỌC. – Sự học hành không làm trở-ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ nó mình được biết rõ ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc-lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn-hoặc không bàn-bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên-cơ chẳng hạn…).
Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ…) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng rãi. Vả lại sự hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu Phật Đạo một cách rành- rẽ.
THỂ DỤC. – Người trong bổn-đạo nam nữ bất-luận, phải giữ gìn thân-thể cho khỏe mạnh. Như thế nên luyện-tập những môn thể-dục nào hợp với sức khỏe, nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khỏe-mạnh tinh-thần mới sáng suốt, như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một cách đắc lực.
ĂN Ở. – Kẻ tu-hành ăn uống phải có điều-độ. Tránh những món ngon song nấu toàn đồ độc cho cơ-thể ăn vào sanh bịnh.
Phải giữ gìn thân thể sạch-sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ sinh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ bẩn, vì xác-thịt dơ dáy thì tinh-thần không thể nào mở-mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những kẻ trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất.
CÁCH LÀM ĂN. – Cách làm ăn phải y như trong mục Bát-Chánh đã dạy:
– Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu, đầu cơ, buôn rượu, bán thuốc phiện…
– Làm những nghề lương-thiện, không có lường gạt ai, bỏ những thói gian xảo.
ĐIỀU-KIỆN VÀO ĐẠO. – Người nào muốn quy-y phải có hai người bổn-đạo cũ, có đức hạnh tiến-cử và bảo-lãnh, đến Ban Trị-Sự trong làng cho người làm đầu biết và người làm đầu phải đọc hết thể lệ về sự tu hành cho người quy-y nghe, hỏi coi có bằng lòng quy-y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng. Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ-tiên rằng: Ngày…tháng…con chịu quy-y theo Đạo. Sau đó, người làm đầu (Hội-Trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có Ban Trị-Sự, hai người bổn đạo cũ phải dìu-dắt người mới, rồi sau sẽ dẫn lên Ban Trị-Sự gần đó, không bắt buộc thề thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến cử hay đặng bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật-lệ trong sự đạo-đức dầu không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách-nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.
Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu-dắt và ủng-hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo-lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng-hộ những kẻ gian tà xảo-quyệt, làm các việc hung ác ngông-cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy.
***
11 – Sự cúng lạy của người cư-sĩ tại gia [trở lại đầu trang]
SỰ CÚNG LẠY CỦA NGƯỜI CƯ-SĨ TẠI-GIA
BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ
Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán nguyện:
Cúi kính dưng hương trước Cửu-Huyền,
Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng.
Nay con tỉnh-ngộ quy-y Phật,
Chỉ dốc tu hiền tạo phước-duyên.
Cắm hương rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:
Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông,
Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn.
Rày con xin giữ Đạo hằng,
Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên.
Mong nhờ Đức Cả bề trên,
Độ con yên-ổn vững bền cội tu. (lạy 4 lạy)
BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ PHẬT
Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán đọc bài Quy-Y:
Nam-mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (tam niệm).
Nam-Mô Thập Phương Phật.
Nam-Mô Thập Phương Pháp.
Nam-Mô Thập Phương Tăng.
Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn-thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm-ứng chứng-minh, nay con nguyện cải-hối, ăn-năn, làm lành lánh dữ, quy-y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo.
Cắm hương lạy 4 lạy cũng được hoặc cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:
Nam-mô Tây-Phương Cực-Lạc thế giới Đại-từ Đại-bi phổ độ chúng-sanh A-Di-Đà-Phật.
Nam-mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng, Liên-Hoa hải-hội, thượng Phật từ-bi, Phật-vương độ chúng, thế-giới bình-an.
Nam-mô nhị nguyện cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh.
Nam-mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ-mẫu quá khứ trực vãng Tây-phương.
Nam-mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái, giải-thoát mê-ly.
Nam-mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật Thầy từ-bi xá tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự, trí-huệ thông-minh, giai đắc đạo quả.
Lạy 4 lạy rồi xá: 1 xá chính giữa niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
1 xá bên trái niệm: Nam-Mô Đại-thế-Chí Bồ-tát.
1 xá bên mặt niệm: Nam-Mô Quan-thế-Âm Bồ-tát.
BÀN THÔNG THIÊN
Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.
Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Quy-Y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây-phương ngũ nguyện. (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).
(Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).
Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.
NIỆM PHẬT
Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng lưng niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
Hay Niệm: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.
(Niệm Phật nhiều ít, tùy theo sức mình, lúc cầu-nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm).
Nam-Mô A-Di-Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời-khắc.
KHI ĂN CƠM
Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy đều nguyện vái Cửu-huyền, Thất-Tổ, ông bà cha mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu-thảo.
ĂN CHAY
Đến ngày đơm-quảy có chi cúng nấy.
Ăn chay ngày 14-15, 29-30, tháng thiếu 29 và mồng 1, có nhang thì đốt, không có thì nguyện không.
Hàng năm đến ngày xuân nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1 phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra mắt không nên sát-sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi .
ĐI XA NHÀ
Đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Còn đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.
12 – Lời khuyên bổn-đạo [trở lại đầu trang]
LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO
Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa-sang những thói hư tật xấu, mình lầm-lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn-cấm sau đây:
ĐIỀU THỨ NHỨT: Ta chẳng nên uống rượu, cờ-bạc, á-phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam-cang ngũ-thường.
ĐIỀU THỨ NHÌ: Ta chẳng nên lười-biếng, phải cần-kiệm, sốt-sắng, lo làm ăn và lo tu-hiền chơn chất, chẳng nên gây-gổ lẫn nhau, hãy tha-thứ tội-lỗi cho nhau trong khi nóng giận.
ĐIỀU THỨ BA: Ta chẳng nên ăn-xài chưng dọn cho thái-quá và lợi-dụng tiền-tài mà đành quên nhơn-nghĩa và đạo-lý, đừng ích-kỷ và xu-phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.
ĐIỀU THỨ TƯ: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền-rủa, vì Thần Thánh không can phạm đến ta.
ĐIỀU THỨ NĂM: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát-sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối-lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà-Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
ĐIỀU THỨ SÁU: Ta không nên đốt giấy tiền vàng-bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô-lý, vì cõi Diêm-Vương không bao giờ ăn hối-lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng-phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn-tật.
ĐIỀU THỨ BẢY: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo-đức, ta phải suy xét cho minh-lý rồi sẽ phán-đoán việc ấy.
ĐIỀU THỨ TÁM: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu-dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây-Phương an-dưỡng mà học Đạo cho hoàn-toàn đặng trở lại cứu-vớt chúng-sanh.
Tất cả thiện-nam tín-nữ trong tôn-giáo nhà Phật, lúc rảnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ-gìn phong-hóa nước nhà, giữ những tục-lệ chơn-chánh, bỏ tất cả những sự dị-đoan mê-tín thái-quá mà làm cho đạo-đức suy-đồi.
Đạo-pháp thường hay dung với hòa,
Xét người cho tột xét thân ta.
Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
Ta thứ được người, người thứ ta.