Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương Hải Ngoại

Quyển Trung Tập 1/2

<< Chú-Giải Sấm-Giảng Thi-Văn Giáo-Lý Toàn Bộ

Mục-Lục Chú Giải Quyển 6: TÔN-CHỈ HÀNH ĐẠO
1) Những điều Sơ lược cần biết của kẻ tu hiền
2) Luận Về Tam Nghiệp
3) Luận Về Bát Chánh
4) Cách thờ phượng, hành lễ và sự ăn ở của một tín đồ PGHH
5) Sự cúng lạy của người Cư sĩ tại gia
6) Lời Khuyên Bổn Đạo

SẤM GIẢNG

THI VĂN TOÀN BỘ

CHÚ  GIẢI

 

QUYỂN TRUNG

Tập 1/2

 

 

 Tôn Chỉ Hành Đạo (Quyển 6)

 

CHÁNH VĂN : ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

CHÚ GIẢI  : THIỆN TÂM

 

LƯU HÀNH NỘI BỘ

 

CHÚ GIẢI QUYỂN SÁU

 

CÁCH TU HIỀN VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT NGƯỜI BỔN ĐẠO

(Cũng có tên là “TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO”)

 

            Quyển Sáu xuất xứ từ phần nhứt (SẤM GIẢNG GIÁO LÝ) trong “SẤM GIẢNG THI VĂN TOÀN BỘ”. Quyển nầy do Đức Huỳnh Giáo Chủ viết khoảng tháng 5 năm 1945 (Ất  Dậu) trong lúc Ngài còn ở Sài Gòn.

            Ngài viết Quyển Sáu bằng thể văn xuôi, lối thuyết giáo. Còn bài “Lời Nói Đầu”, trước kia là một văn thư Đức Giáo Chủ viết gởi kèm theo Quyển Sáu và  ký biệt danh là “HÒA HẢO”.

            Trong nội dung bài “Lời Nói Đầu”, Đức Thầy cho biết các lý do khiến Ngài sáng tác và khuyên mọi người cần gìn giữ, tu tập đúng theo qui tắc của Đạo, để xứng đáng là một tín đồ hầu khỏi phụ công ơn của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, đấng đã khai sáng Đạo Phật.

LỜI NÓI ĐẦU QUYỂN 6

 

CHÁNH VĂN

          Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải-bày tường-tận Tôn-Chỉ Hành-Đạo của tôi.

            Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn Đạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không hợp với tinh-thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Đạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xảy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Đạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Đạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải-thoát.

 

Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật

HOÀ – HẢO

( SGTVTB 2004, tr.177 )

 

LƯỢC GIẢI :

        NGUYÊN NHÂN ĐỨC THẦY VIẾT QUYỂN 6:

            Bởi lúc bấy giờ người Pháp dùng chánh sách đàn áp các Đạo giáo, nhứt là Phật Giáo Hòa Hảo, nên sau khi khai Đạo chưa đầy một năm thì họ bắt Đức Thầy lưu đi. Suốt thời gian 5 năm Ngài không được trực tiếp hướng dẫn tín đồ. Tuy nhiên, phần đông bổn đạo có thiệt thi đúng theo giáo lý, nhưng cũng còn một số hành động trái với tinh thần cao cả của Đạo Phật.

            Do đó, Ngài viết Quyển Sáu gởi về khuyên khắp môn đồ phải hành sử đúng theo các qui tắc ấn định trong đây, hầu tránh những việc sơ suất và tránh phụ công ơn của Đức Bổn Sư Thích Ca đã khai sáng Đạo Phật cùng dìu dắt quần sanh tầm đường giải thoát.

 

CHÚ THÍCH :

            NĂM NĂM TRƯỜNG: Năm năm dài. Ý chỉ từ tháng Tư năm Canh Thìn (1940), Đức Thầy bị người Pháp lưu đày. Đến khi Ngài viết quyển Sáu là tháng 5 năm Ất Dậu (1945), tính theo thời gian ấy là 5 năm Ngài phải xa cách tín đồ.

            CHÁNH SÁCH: Cũng gọi là chính sách. Có nghĩa phương cách và kế hoạch của một chánh quyền.

            ÁP BỨC: Ép buộc, bức hiếp bằng sức mạnh của người có quyền thế. Ví dụ: dùng quyền lực áp bức dân chúng.

            TÔN GIÁO: Tiếng dùng gọi chung các nền Đạo có tín ngưỡng và đường hướng dẫn dắt nhân sanh hành thiện tránh ác.

            Thuở loài người chưa tiến bộ, họ lấy cục đá, gốc cây…làm vật thờ cúng, sau mới thờ các vị thần. Tôn giáo lúc đó cho rằng các vị thần cũng có hình thể, tâm tánh như con người, nhứt là ở các nước như Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã… Bấy giờ người ta lấy sự thờ kính của một vị thần (Độc thần giáo), hay nhiều vị (Đa thần giáo) làm chủ đích để tin theo. Đó là họ chỉ chú trọng về phần tín ngưỡng thôi.

            Lần lượt khoa học tiến bộ, các vị Thánh triết ra đời, mở rộng con đường đạo lý. Vào đầu Tây lịch kỷ nguyên Chúa Gia Tô xuất hiện, lập nên Tôn Giáo Cơ Đốc truyền bá ở Âu Châu.

            Riêng về Á Châu có Phật Giáo là nền Đạo thuần nhứt, do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập, đem giáo thuyết từ bi bình đẳng giáo hóa chúng sanh, đến nay có trên 2.500 năm mà nhân loại khắp thế giới, càng lúc càng phụng hành đông đảo.

            Xét cho kỹ, Phật Giáo không thể gọi là Tôn Giáo như các Đạo nói trên, vì Phật Giáo có một nền giáo lý thực tế, áp dụng vào đời sống thiết thực cho nhân sinh. Nói rõ hơn giáo lý Phật Giáo gồm đủ: Tâm – vật – lý mà siêu tâm – vật – lý và lúc nào Phật Giáo cũng tiến trước khoa học.(Trước đây 25 thế kỷ, Phật đã biết trong nước có vi trùng và ngoài địa cầu ta ở có vô số địa cầu và hành tinh khác. Còn khoa học mới phát sinh và thấy được sau đó rất lâu.)

            TÔN CHỈ: Ý chỉ chính xác. Cũng có nghĩa đường lối vạch sẵn, để thực hành theo hầu tiến tới mục đích. Đây ý nói cách ăn ở và phương thức tu hành trong quyển sách nầy là “Tôn chỉ’ của PGHH, nếu ai trì hành đúng theo, sẽ đạt đến mục đích ( giải thoát ) của Đạo.

            CƯỜNG QUYỀN: Quyền thế mạnh mẽ. Ý chỉ nhà đương cuộc Pháp bấy giờ (1939-1945).

            TRUNG THÀNH: Ngay chánh và thành thật, tức người có lòng thành thật trước sau như một chẳng hề thay đổi. Ví dụ: trung thành với tổ quốc, trung thành với Đạo pháp.

            Đức Thầy có câu:

             “Ghi biên những kẻ quá lương hiền,

            Một mực trung thành với Phật Tiên”.

            ĐẠO ĐỨC: Đạo có nhiều nghĩa. Đạo là con đường của tâm hồn; Đạo là bổn phận của con người; Đạo là bản thể tuyệt đối. Đức là tâm lành, là thể hiện của nhân lành: từ bi, bình đẳng. “Tinh thần đạo đức” là tinh thần cao thượng:“Từ bi, bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng, đại độ..“.

            Hoặc là: “Đạo đức gắng công nên cách mặt.”

            Và       “Ơn nhà Đạo đức quyết đền ân. “

            CHỦ NGHĨA: Cái tiêu chuẩn căn bản về lý tưởng của một tôn giáo hay một học thuyết mà người ta đang tín ngưỡng và quyết định thực hành theo.

            TỪ BI: (Xem chú thích chữ Từ Bi trong ân Đồng Bào và Nhân Loại, Q. Thượng, Tập 1/3, tr. 40)

            BÁC ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn:

            “Bác ái xả thân tầm Đạo chánh.”

            GIÁO PHÁP: Cũng gọi là Pháp giáo hay Phật pháp tức là do vô số lời lẽ của Đức Phật thuyết ra suốt 49 năm để giáo hóa chúng sanh. Sau đó các đại đệ tử kết tập lại thành Tam tạng: Kinh, Luật, Luận. Như tất cả Kinh Giảng lời lẽ chỉ dạy của Đức Thầy hiện giờ cũng gọi là giáo pháp. Giáo Pháp là một trong 3 ngôi quí báu: Phật, Pháp, Tăng. Xưa nay người tu Phật đều nhờ nương theo Giáo pháp mà được tỏ ngộ chân tánh, thành Đạo giải thoát:

            “Tìm tõi Đạo mầu trong Phật pháp,

            Cho đời hiểu rõ lý chơn không.

            TRÍ HUỆ: Phạn ngữ Prajna, phiên âm là Bát nhã, dịch là trí tuệ hay trí huệ, có nghĩa sáng suốt. Hiểu rành các sự việc về hình tướng (hữu vi) gọi là trí; sáng thông mọi lẽ, mọi pháp về nội tâm (vô vi) gọi là huệ. Nghĩa chung là sự thấy biết thông suốt các pháp vô vi, hữu vi và cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai một cách rõ ràng, không hề bị một sự vật nào làm ngăn ngại. Trí huệ phản nghĩa với mê si (vô minh) và phiền não. Vì các món ấy là mê tối, lầm lạc và tội ác; còn trí huệ là sáng suốt, chơn chánh, ví như ngọn đèn soi tan bóng tối. Trí huệ khác hơn thế trí biện thông (kiến thức) bởi thế trí do học mà biết, còn trí huệ do nơi tu hành mà thông đạt, rốt ráo cùng tột.

            Trí huệ là một trong Lục độ vạn hạnh của chư Bồ tát: Bố thí, Nhẫn nhục, Trì giới, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ; nhưng trí huệ siêu việt hơn và bao gồm 5 độ kia. Đức Thầy hằng dạy:

                        “Trí huệ trau giồi kiếm nẻo thanh”.

            Hoặc:  “Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý.”

            QUI TẮC: Do chữ qui củ chuẩn thằng. Qui là cái đồ vẽ hình tròn (compas), củ là cây thước vuông dùng để đo góc. Chuẩn thằng là sợi dây tiêu, dây mực. Nhờ các món ấy người thợ mới làm nên món đồ ngay thẳng khéo đẹp. Nghĩa rộng chỉ cho luật lệ, phép tắc.

            Chữ qui tắc ở đây Đức Thầy chỉ cho quy luật nghi thức của Đạo mà mỗi tín đồ phải hành trì cho đúng theo đó.

            BỔN SƯ: Ông Thầy căn bản. Theo Phật Giáo thì Đức Thích Ca Như Lai là vị Thầy căn bản (cội gốc), vì Ngài là đấng Giáo Chủ khai sáng Đạo Phật.

                        Nam Mô Thích Ca Như Lai,

             Ta Bà Giáo Chủ xin Ngài chứng minh.”

            THÍCH CA: Phiên âm của Phạn ngữ Sakya, họ của Phật. Tàu dịch là Năng Nhơn. Có nghĩa: người có năng lực từ bi rộng lớn, Ngài dùng mọi phương tiện giáo độ tất cả chúng sanh. Đức Thầy có câu: “Khùng huyền cơ Khùng Đạo Thích Ca”. (Xem thêm Q. Thượng, Tập 2/3, tr. 113.)

            MÂU NI: Phiên âm của Phạn ngữ Mouni, dịch là Tịch Mặc. Có nghĩa trong sáng và lặng lẽ. Tuy làm các hạnh lành, giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên trong sạch, không hề xao động thiên chấp.

            GIẢI THOÁT: Cởi mở sự ràng buộc, đeo níu; chỉ cho người giải thoát khỏi sáu nẻo luân hồi sanh tử. Giải thoát là một trong nhiều nghĩa của chữ Niết Bàn. Đức Thầy có câu: “Mong bá tánh vạn dân giải thoát.”

NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN

       Đức Thầy viết Quyển 6 vào khoảng tháng 5 năm 1945 ( Ất Dậu ) tại Sài Gòn.

            Đại lược Quyển 6 gồm có nhiều đề tài ngắn như: Tứ ân, Thập ác, Bát chánh đạo, Nghi thức thờ phượng, Hành lễ, Tang ma, Hôn nhơn, Lễ bái, Cầu nguyện, cách xử thế tiếp vật, … và Giới luật, mà cả thảy tín đồ PGHH đều xem đây là “Tôn Chỉ Hành Đạo”, là giáo lý căn bản cần được chấp hành nghiêm chỉnh trên đường Tu nhơn cũng như Tu Phật.

 CHÁNH VĂN

 (Đoạn mở đề)

            Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người:

            1)  Hạng xuất gia.

            2)  Hạng tại gia.

            HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn toàn ly khai với gia-đình, quê-hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am-cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kinh kệ, săn-sóc cảnh dà-lam, trau-luyện đức lành, giồi-mài trí-tuệ hầu giảng-giải cho bá-tánh, thập phương nghe để quày đầu hướng thiện quy-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia đình nhà-cửa của nhà sư là cả thế-gian, thân-quyến nhà sư là khắp cả nhân-loại đại-đồng.

            Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật-quả, thoát kiếp luân-hồi.

            HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại-chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất-gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ-quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý-tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng của nhà Phật và Luật Nhân-Quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát-nguyện quy-y, giữ gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng-hộ các nhà sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát.

            Đây là hạng người  học Phật tu Nhân.

            Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại-gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy.

            Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy-y đầu Phật tu niệm tại-gia, ta hãy cố-gắng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa.

            Đức Thầy Tây-An thuở xưa thường khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn.

1.- Ân Tổ-Tiên cha mẹ, 

2.- Ân Đất-Nước,

3.- Ân Tam-Bảo,

               4.- Ân Đồng-Bào và Nhơn-loại ( với kẻ xuất gia thì ân đàn-na thí-chủ ).

                                               ( SGTVTB 2004, tr. 179-180 )

 

LƯỢC GIẢI :

(Đoạn mở đề)

            Bởi tùy theo căn cơ và hoàn cảnh thích hợp với người tu hiện thời, nên Đức Thầy lược kể những cương yếu, cho mỗi tín đồ tiện bề tu học đúng theo tôn chỉ của Đạo.

            Trước hết Ngài nhận xét về hai hạng tu: xuất gia và tại gia đã có trong Đạo Phật từ trước. Để rồi Ngài xác định hầu hết môn đồ PGHH đều là hạng “tại gia cư sĩ học Phật tu Nhân”, mà chính Ngài đã nêu gương hạnh, trong một đoạn giảng:

               Ta là cư-sĩ canh điền,

   Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.

               Xa nơi tranh-đấu lợi-danh,

   Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria.

               Gắng công trì niệm sớm khuya,

   Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”.

            Vì rằng xuất gia với hình thức suông, cũng chưa giải thoát luân hồi mà phải xuất gia bằng nội tâm, mới ra khỏi nhà lửa tam giới. Sở dĩ Ngài đề vạch tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, là vì nếu người riêng tu Nhân mà không tu Phật thì chỉ tiến tới bực siêu nhân thôi, chớ chưa thoát vòng sanh tử. Bằng chỉ tu Phật, chẳng hành xử Đạo Nhân, tuy được phần tự giác và nhàn tịnh, nhưng dễ bị kẹt vào tư tưởng tiêu cực, yếm thế, không thực hiện được tình từ bi cao thượng trong quảng đại quần chúng. Đã không đền được nợ thế, lại thiếu phần nhân nghĩa phước đức, như Đức Thầy hằng khuyên:

                        Tu đền nợ thế cho rồi,

               Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen”.

            Và:      Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,

                  Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần”.

            Vậy nhà tu có lập thân cõi trần mới trả xong nợ thế, và thiệt thi được lòng giác tha để đạt đến giác hạnh viên mãn, chứng thành Phật quả.

            Lại nữa, Đạo Nhân như nấc thang đầu, Đạo Phật như nấc thang chót, nếu hành giả bước nấc đầu rồi đứng đó, ắt không bao giờ đạt được mục đích. Bằng muốn leo lên nấc thang chót mà chẳng chịu bước nấc đầu, cũng không khi nào kết quả. Cho nên cả Đạo Nhân và Đạo Phật, người tín đồ PGHH phải đồng hành cho trọn vẹn.

            Tóm lại, có tu nhân mới trả xong nợ thế, dứt nghiệp sanh tử và tạo được vô lượng phước đức để làm nền tảng trên đường giải thoát. Và có tu Phật mới diệt tận phiền não vô minh, để trí huệ phát khai, kiến tánh thành Phật, hoặc siêu sanh về Lạc quốc. Đức Thầy đã viết một bài thi hàm chứa cả tu Nhân lẫn tu Phật:

            Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên,

            Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền.

            Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,

            Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.

            (Câu 1 và câu 2 của Bài thi dạy về tu Nhân. Câu 3 là dạy cách học Phật và tu Nhân. Câu 4 chỉ cho sự kết quả của người tu.)

 

CHÚ THÍCH :

            SƠ LƯỢC: Lược qua những phần cương yếu, cần thiết, chớ không lý luận dài dòng chi tiết. Đức Thầy nói: “Lấy yếu lược đôi câu mà trần tố.

            TU HIỀN: Trau giồi những điều phước lành tốt đẹp và chừa bỏ những điều xấu xa tội ác, rèn luyện cả khả năng và đức hạnh. Nên chữ tu hiền ở đây gồm cả tu Nhân và tu Phật. Kinh Minh Thánh có câu:“Bất du Thánh Đạo, an đắc vị hiền” (Không vào Thánh Đạo sao gọi là người hiền). Đó là tu Nhân. Còn trong bài qui y, Đức Thầy dạy: “Qui y theo mấy Ngài tu hiền theo Phật Đạo. Bởi có tu hành theo Phật Đạo mới được trọn lành, trọn sáng; ấy là tu Phật.

            ĐẠO PHẬT: Cũng gọi là Phật Đạo hay Phật Giáo, là một trong những nền Đạo lớn nhứt trong thế giới. Phát khởi từ cõi Thiên Trước (Ấn Độ), do Đức Thích Ca làm Giáo Tổ, trước Tây lịch 544 năm. Là nền Đạo dạy người tự tu, tự ngộ, tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn, tức là thành Phật, nhằm mục đích giải khổ cho toàn thể chúng sanh.

            Sau Đức Thích Ca tịch diệt thì các vị Tổ kế truyền, và những nhà tu đắc đạo tiếp tục quảng bá Đạo Phật lan rộng trong nhân gian. Hiện nay có hơn 800 triệu tín đồ sùng ngưỡng, chiếm tỷ số hơn một phần ba thế giới. (Ban HĐ: Theo Từ Điển Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, số tín đồ PG trên thế giới rất khó ước tính và có sự sai biệt rất lớn giữa các nguồn cung cấp, một ước tính mới nhất mà Bộ Từ Điển nầy ghi trong năm 2011, số tín đồ PG như sau: Thế giới: 1.548.258.682 người/6.671.226.000 dân số thế giới, chiếm 23,208%;  Việt Nam : 72.473.003 người/85.262.352 dân số VN, chiếm 85%; Hoa Kỳ: 6.022.799 người/301.139.947 dân số HK, chiếm 0,2%; …). Phật Giáo là tôn giáo có đông tín đồ hàng thứ 3 sau Cơ đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islam) – một ước tính khác ghi hàng thứ 4 tức sau cả  Ấn độ giáo (Hinduism).

            NHÀ SƯ: Ông thầy tu theo Đạo Phật, chỉ cho các  tăng sĩ Phật giáo, hoặc các Thầy giảng giải giáo lý Đạo Phật. Nhà Sư là danh từ thông dụng để gọi chung trong giới Tăng Đồ, vừa tu vừa giảng dạy Đạo Phật cho đại chúng nghe.

            NI CÔ: Giới nữ tu hạnh xuất gia, thường ở chùa hay am cốc.

            CỬA THIỀN: Do chữ Thiền môn. Có nghĩa cửa chùa hay cửa Phật, cũng chỉ cho cửa Đạo:“Đạo cả nào trông đến cửa Thiền”( ĐT) .

            AM CỐC: Am là cái nhà nhỏ, có trang trí thờ phượng như cái chùa; cốc là hang trên núi hoặc cái lều nhỏ không cần thờ phượng. Am cốc là nơi các nhà tu ở.

            KINH KỆ: Kinh, phiên âm Phạn ngữ “Tu-đà-la”(sutras) Tàu dịch là tuyến, nghĩa như sợi dây xâu các hột châu lại thành chuỗi. Tức là Phật nói ra các pháp rồi những đệ tử kết tập lại thành Kinh, lưu truyền đời sau. Kệ là một thể văn trong Kinh Phật, thường cứ một thiên kinh là có một bài Kệ, để tán tụng hoặc tóm tắt đại ý hay diễn dịch ra. Chữ Kinh Kệ nói chung là chỉ cho tất cả lời của Phật của Thầy nói ra để giáo hóa chúng sanh.

            Kệ Kinh tụng niệm đêm thanh,

             Ấy là châu ngọc để dành về sau”. (ĐT) 

            DÀ LAM: Cũng viết là Già Lam, nói cho đủ là Tăng già lam. Có nghĩa là cảnh vườn chùa, chỉ chung cho các ngôi chùa.

            BÁ TÁNH: Trăm họ, chỉ chung cho tất cả mọi người trong thế gian.

            THẬP PHƯƠNG: Mười phương hướng, chỉ cho 8 hướng chung quanh và 2 hướng trên và dưới, tức là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam,Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương. Thập phương là tiếng chỉ chung cho khắp thế giới hoặc khắp chư Phật hay chúng sanh.

                 Nguyện mười phương chư Phật đáo lai”.( ĐT)

            QUI Y: Qui là nương về. Y là làm theo. Nghĩa chung là nương về với Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và trì hành theo lời pháp giáo của Tổ Thầy đã dạy. Đức Thầy có giải:

            Quy là về, mà về đâu ? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu. Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng, thì khá vâng lời. Cần nhứt ở chỗ giữ giới luật hằng ngày”.

                        Qui y thì khá làm y,

                Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.( ĐT)

            PHẬT PHÁP: Giáo pháp của chư Phật. Tất cả tam tàng: Kinh, Luật, Luận đã có trong Đạo Phật từ trước và Kinh giảng của Đức Thầy hiện giờ đều gọi chung là Phật Pháp. Người tu Phật phải nương theo đó mà tu tập cho đến khi thành Đạo. Giáo pháp là một trong Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Đức Thầy từng khuyên:

            Phật pháp thiền na dốc thật hành”.

            ĐẠI ĐỒNG: Rộng lớn, bình đẳng, không phân biệt giới hạn, giai cấp. Chữ đại đồng ở đây chỉ cho sự bình đẳng rộng lớn khắp cả nhân loại chúng sanh. Đức Thầy thường cho biết:

            Dựng cuộc hòa minh khắp đại đồng”.( ĐT)

            PHẬT QUẢ: Cũng gọi là quả Phật, chỉ cho các bậc tu hành đã thành Phật, tức là hoàn toàn giác ngộ; gồm đủ tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.

            LUÂN HỒI: Luân là bánh xe, hồi là xoay trở lại. Ý nói chúng sanh từ vô thỉ đến nay, hết sống rồi chết, chết rồi đầu thai trở lại; cứ thế mà lăn lộn xuống lên mãi trong 6 cõi phàm, như bánh xe xoay tròn không có đầu mối. Đức Thầy đã bảo:

            Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,

             Mắc trong vòng sanh tử luân hồi”.

            ĐẠI CHÚNG: Số dân chúng rộng lớn. Ý chỉ cho hầu hết dân chúng.

            ĐIỀU KIỆN: Điều phụ vào, nhưng bắt buộc phải có trong sự cam kết định đoạt.

            XÃ HỘI: Những đoàn thể loài người có mối quan hệ sinh hoạt chung với nhau.

            HOAN NGHINH: Cũng viết là hoan nghênh. Có nghĩa tiếp đón và hoan hô, ca ngợi một cách vừa lòng vui thích.

            LÝ TƯỞNG: Tư tưởng cao cả và quí đẹp nhất về một vấn đề gì. Ví dụ: Lý tưởng đạo đức trên hết.

            LUẬT NHÂN QUẢ: Cũng gọi là “Luật quả báo”, tức là định luật trả vay của nhân và quả. Hễ mình làm việc lành hay dữ thì sớm muộn gì cũng có trả lại quả vui hay khổ. Đức Thầy cho biết:

            Luật nhân quả thật là cao viễn,

             Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

            Sự quả báo có nhiều cách, tạm chia làm 5 phần:

            1-Hiện Báo: Quả báo trong một đời, hễ ai tạo việc lành hay dữ trong kiếp nầy thì sớm muộn gì cũng kết quả vui hoặc khổ trong kiếp nầy.

            2-Sanh Báo: Quả báo hai đời, là người gây nhân lành hay dữ trong đời nầy, qua đời kế đó mới kết quả vui hay khổ, hoặc gây tạo ở kiếp vừa qua mà kiếp nầy thọ hưởng.

            3-Hậu Báo: Quả báo nhiều đời, là nghiệp gây tạo ở nhiều kiếp trước, kiếp nầy trả, hoặc hành động ở kiếp nầy đợi tới nhiều kiếp sau mới trả.

            4-Nhồi Báo: Là nghiệp nhân đã gây tạo nhiều lần trong nhiều tiền kiếp, bây giờ phải trả dồn một lượt.

            5-Dư Báo: Là những nghiệp nhân yếu ớt hay thiếu trợ duyên từ vô lượng kiếp dẫn tới giờ còn sót lại. Vì hành giả tu hành tinh tấn, nên hạt giống đó không có cơ hội phát khởi, nhưng nó không úng chết. Đợi tới kiếp hành giả đắc Đạo mới bị trả một cách nhẹ nhàng.

            GIỚI LUẬT: Cũng gọi là giái cấm, giới luật do Thầy Tổ lập ra để răn cấm môn đồ không cho quấy phạm, như “Tám điều răn cấm”, hay 10 điều ác…“Gìn giới luật nghe Kinh trọng Phật”.( ĐT)

            HỌC PHẬT TU NHÂN: Hiểu theo văn tự là học cho thông suốt Đạo Phật và hành sử cho trọn vẹn Đạo Nhân, nhưng hiểu theo ý pháp của Đức Thầy thì tôn chỉ PGHH gồm có Đạo Nhân và Đạo Phật, mà mỗi tín đồ cần phải thực hành cả hai mới đạt đến mức cứu cánh, hoặc lấy tâm Phật mà hành Đạo Nhân mới siêu thoát.

            HIẾU NGHĨA: Hiếu hạnh và tiết nghĩa, cũng giải là thích làm việc phải, có ích lợi cho mọi người. Chữ hiếu nghĩa ở đây còn có nghĩa là thi hành việc Đạo nghĩa, tức là lo đền đáp tứ ân và đối xử cho tròn cái Đạo làm người: Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên”.

            ĐỨC THẦY TÂY AN: Ngài quê ở làng Tòng Sơn, thuộc Cái Tàu Thượng, nay là xã Mỹ An Hưng, tỉnh Sa Đéc (Nam phần Việt Nam). Ngài sanh vào giờ Ngọ, ngày Rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807), niên hiệu Gia Long thứ VIII. Ngài khai Đạo đầu mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1849). Viên tịch vào giờ Ngọ, ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856). Ngài chính danh là Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh, người trong Đạo cũng như ngoài đời, đều xưng tụng Ngài là Đức Phật Thầy Tây An. Ngài khai sáng Tông Phái Bửu Sơn Kỳ Hương và là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ (Xem lại chú thích “Đức Thầy Bửu Sơn”:  Q. Thượng, Tập 1/3, tr. 84-86).

            MÔN NHƠN ĐỆ TỬ: Môn nhơn là người học trò, đệ tử là con em. Trí năng do Thầy đào tạo ra nên gọi là con. Sự hiểu biết sau Thầy nên gọi là em. Hiểu chung bốn chữ “Môn nhơn đệ tử” là những người học trò trong một trường Đạo hay một môn phái.

            HY SINH: Con vật toàn một màu sắc, đem làm thịt dùng vào việc cúng tế. Ý nói người dám bỏ tất cả quyền lợi, danh vị, tài sản lẫn tánh mạng để làm được việc công nghĩa. Hy sinh vì Đạo là người dám liều thân hoặc dồn hết tâm lực để làm tròn việc Đạo pháp.

            GẮNG GỔ: Cố gắng làm để nên việc.

 

 I. BỐN TRỌNG ÂN :

 

            Bốn điều ân Đức Thầy rút nơi phẩm “Báo Tứ Ân” trong Kinh Tâm Địa Quán Đại Thừa Bồ Tát Đạo:“Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”. Và cũng nối theo sự truyền giáo của Đức Phật Thầy trước kia:

            “Loài cầm thú còn hay biết ổ,

             Huống chi người nỡ bỏ tứ ân”.

            Ngày nay Đức Thầy dạy:“Muốn làm tròn Nhân Đạo phải giữ vẹn tứ ân”. Đó là phần ân nợ (nợ do mình thọ ơn).

 

                                          1. Ân Tổ Tiên  Cha Mẹ

 

CHÁNH VĂN

            ÂN TỔ-TIÊN CHA MẸ : Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ-tiên nữa.

            Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh-tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải, ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao-lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh-hoạn ốm-đau, gây sự hòa hảo trong đệ-huynh, tạo hạnh-phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

            Còn đền ơn tổ-tiên, là đừng làm điều gì tồi-tệ điếm nhục tông môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo-nghĩa, rửa nhục tổ đường.

                                                ( SGTVTB 2004: tr.180-181 )

 

LƯỢC GIẢI :

(Ân Tổ Tiên Cha Mẹ)

            Cổ Đức từng bảo:“Trời đất có bốn mùa, mùa Xuân là đứng đầu. Người có trăm hạnh, Hiếu là trước nhứt”.(Thiên địa tứ thời Xuân tại thủ, nhơn sanh bách  hạnh Hiếu vi tiên.) Đức Thầy nay đã dạy:“Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu”.

            Nhà tu muốn vẹn tròn hạnh hiếu trước phải biết công ơn Tổ Tiên cha mẹ.

            1) LÝ DO THỌ ƠN CHA MẸ: Cây có cội, nước có nguồn, con người sở dĩ có thân, không phải chuyện ngẫu nhiên mà phải nhờ bao nhiêu công ơn của cha mẹ. Từ khi còn nằm trong bào thai, sanh ra và nuôi dưỡng cho đến lúc nên người. Công ơn ấy sách Thánh gọi là chín chữ Cù Lao:Phụ hề sanh ngã, Mẫu hề cúc ngã; ai ai phụ mẫu sanh ngã Cù lao dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực”. Chín chữ Cù Lao gồm có : Sinh, Cúc là nuôi nấng, Phủ là an ủi vổ về, Dục là nuôi dạy, Cố là trông nom, Phục là quấn quít, Phụ là giúp đỡ nâng nhắc, Súc là nuôi cho lớn vóc và Phúc là bồng ẳm.. Còn Kinh Phật diễn tả 10 điều ơn của người con thọ nơi cha mẹ là:1.Thập ngoạt hoài thai: mười tháng cưu mang thai nghén, 2. Lâm sản thọ khổ: sanh đẻ chịu khổ, 3. Sanh tử vong ưu: sanh được con mừng mà quên lo rầu, 4. Yến khổ thổ cam : uống đắng nhổ ngọt, 5. Hồi can tựu thấp: nhường chỗ khô nằm chỗ ướt, 6. Nhũ bộ dưỡng dục: bú mớm và nuôi nấng, 7. Tẩy trạc bất tịnh: rửa ráy mọi điều dơ bẩn, 8. Viễn hành ức niệm: Con đi xa, cha mẹ nhớ tưởng, 9. Vị tạo ác nghiệp: vì con mà làm điều chẳng lành, 10. Cứu cánh lân mẫn: tình thương cha mẹ không có cái thương nào bằng. Chẳng thế, cha mẹ còn lo dạy dỗ cho con được khôn ngoan ngay thảo, đạo đức đối xử, nghề nghiệp sanh sống và gầy dựng tài sản để lại cho con. Ơn ấy thật sánh tày non biển:

                        “Công cha như núi Thái Sơn,

             Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.(Ca dao)

            2) THỌ ÂN TỔ TIÊN: Xét ra, cha mẹ chẳng phải tự nhiên sanh mà phải nhờ tổ tiên, tức là nhờ ông bà từ trước sanh thành dưỡng dục, như cha mẹ sanh dưỡng ta hiện giờ. Rồi ông bà trước nữa sanh ông bà kế đó…Cứ tiếp tục tương liên từ vô thỉ đến nay. Tổ tiên còn lo tu bồi phước đức, danh thể và tài sản để lại cho con cháu:

                        “Khen ai kiếp trước khéo tu,

             Ngày nay con cháu võng dù xuê xang”.(Ca dao)

            Vì thế chúng ta phải mang ơn Tổ Tiên.

            3) PHƯƠNG CÁCH ĐÁP ƠN CHA MẸ :

            a.-  Hiếu thế gian: Gồm có vật chất và tinh thần :

             – Về vật chất : cung cấp cho cha mẹ mọi phương tiện như cơm ăn, áo mặc, nhà ở và thuốc thang, chăm sóc khi có bịnh; sớm viếng tối thăm, đắp lạnh quạt nồng. Đức Thầy dạy:

                        Mộ Khan thần tỉnh cần triêu,

             Khỏi cơn hoạn nạn Lam Kiều được lên”.

              – Về tinh thần: không nên hủy hoại thân xác mình  hay vì sân si buồn khổ mà tự sát. (Buồn giận cha mẹ anh em mà tự sát là có tội lớn. Còn chết vì tổ quốc, và đạo pháp hay bảo vệ tiết nghĩa là tốt.) Ngoài ra, cần làm cho cha mẹ an vui bằng cách: Vâng lời dạy bảo chánh đáng của cha mẹ, gây niềm hòa thuận trong anh em gia tộc, tạo hạnh phúc cho gia đình và khuyên cha mẹ hành thiện, tránh ác.

            b.-  Hiếu xuất thế gian: gồm có các điều:

            – Tu cầu và hồi hướng công đức cho cha mẹ: sống đặng phúc thọ, chết đặng siêu thăng Phật đài.

            – Tạo lập thân danh tốt lành và quyết chí tu hành đắc đạo để độ rỗi tổ tiên, cha mẹ ra khỏi sanh tử luân hồi, như Đức Thầy đã dạy:

                        Mục Liên cứu mẹ bằng nay,

                         Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ bi”.  Và:

             Rán tu đắc đạo cứu Cửu huyền,

             Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.

             Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo,

             Cho ta hình vóc học cơ huyền”.  

            4) CÁCH ĐÁP ƠN TỔ TIÊN :

            a.- Chẳng làm điều gì xấu ác, tệ hại có ảnh hưởng không tốt cho Tổ tiên tộc họ.

            b.- Nếu trước kia Ông Bà ta có lỡ làm điều chi tội lỗi hay tà nghiệp,…giờ đây ta phải chuyển đổi theo chánh nghiệp và hy sinh tinh thần, thể xác vào việc tu thân hành đạo hầu rửa nhục cho Tổ Tiên nòi giống.

            5)  LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI CÓ HIẾU :

            Người đáp ơn Tổ Tiên cha mẹ tất được kết quả:

            a.- Hiện tại được mọi người kính nể mến thương. Ở địa vị cao quý trong xã hội như Vua Thuấn đời Ngũ Đế…Ông Thuấn nhờ lòng hiếu thảo rất mực, nên được vua Nghiêu mến đức rước về truyền ngôi.

            b.- Tương lai chứng đắc Đạo quả và độ được Cửu Huyền Thất Tổ, như Thái tử La Đề Xà thời xưa. La Đề Xà là tiền thân của Đức Phật. Lúc bị vong quốc, Ông cùng phụ mẫu bôn đào. Nửa đường bị đói khát, ông lóc thịt nuôi cha mẹ. Trước khi chết còn nguyện hiến bộ xương và gan ruột cho côn trùng. Cảm động,  Trời Phật cho xác thân ông bình phục và về sau thâu hồi được đất nước,  kiếp sau cùng thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Thầy hằng bảo:

                        Hiếu trung lòng nhớ chớ quên,

                    Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên Đài”.

            6) TAI HẠI CỦA NGƯỜI BẤT HIẾU :

            Đức Thầy trách  những người không lo đáp ơn Tổ Tiên cha mẹ:

            Ham công danh quên chữ sanh thành,

             Mến phú quí quên câu dưỡng dục”. Hoặc là:

             “Nào chưởi cha mắng mẹ lăng xăng,

             Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu”.

            Cho nên người bất hiếu phải vương các khổ lụy: Sống bị người đời khinh rẻ, địa vị thấp hèn, khi chết bị đọa 3 đường ác: địa ngục, ngạ qủy, súc sanh.

            7) KẾT LUẬN :

            Tóm lại. công ơn Tổ Tiên cha mẹ rất lớn, và hạnh hiếu là đứng đầu trăm hạnh, nên Đức Thầy thường giác tỉnh chúng ta:

            “Vẹn mười ơn mới Đạo làm con,

             Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc”. Hoặc là:  

             “Ở ăn cho vẹn mười ơn,

             Cảnh tình hiền đức gặp cơn khải hoàn.

 

CHÚ THÍCH :

            TRƯỞNG THÀNH: Lớn khôn, người đã lớn từ 18 tuồi trở lên, gọi là trưởng thành.

            TỔ TIÊN: Ông bà đời trước và nhiều đời trước nữa.

            BỔN PHẬN: Phận sự, phần việc của mình. Một phần nghĩa của chữ Đạo (Đạo là bổn phận).

            SANH TIỀN: Lúc sống, tiếng dùng nhắc lại một người đã chết.

            CHĂM CHỈ: Chuyên vào một việc, không lo tính chuyện gì khác.

            LẦM LẪN: Cũng gọi là lầm lộn, tức lộn cái nầy qua cái khác.

            HÒA HẢO: Thuận hòa tốt đẹp (lành).

            HẠNH PHÚC: Phước lành, vận may phúc tốt, tức gặp nhiều may mắn, mọi sự được như ý.

            THỎA MÃN: Hài lòng vừa ý, vừa đúng với ý muốn của mình.

            PHƯỚC THỌ: Được hạnh phúc và sống lâu.

            QUÁ VÃNG: Qua đời, chết rồi.

            LINH HỒN: Phần khôn biết trong con người. Linh hồn đối với thể xác, có nhiều tên gọi khác về chữ nầy: Bửu Quang, Thần hồn, Tâm hồn, Tâm thức, Thần thức, Hữu hay Ấm…Tất cả đều chỉ cho phần tinh thần của con người.

            SIÊU THĂNG: Vượt cao lên. Ý chỉ sự siêu thoát lên cõi Tiên Phật.

            PHẬT CẢNH: Cảnh giới của chư Phật, đây chỉ cho cõi Cực Lạc:“Cả vạn vật đồng về Phật cảnh”( ĐT)

            TRẦM LUÂN: Chìm trong bánh xe luân hồi sanh tử. Chỉ cho con người còn luân hồi chưa được giải thoát.

            ĐIẾM NHỤC: Điếm là hòn ngọc có vết; nhục là xấu hổ. Nghĩa chung là làm điều lầm lỗi xấu hổ, ví như hòn ngọc có vết.

            TÔNG MÔN: Dòng họ nhà mình.

            ĐẠO NGHĨA: Đạo đức và nhân nghĩa.

            TỔ ĐƯỜNG: Ông bà cha mẹ.

 

                                              2.  Ân Đất Nước.

 CHÁNH VĂN  

            ÂN ĐẤT NƯỚC : Sanh ra, ta phải nhờ Tổ-tiên, cha mẹ, sống ta  cũng nhờ đất nước, quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ-dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm-lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng-nghèo, và làm cho được trở nên cường-thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

            Hãy tùy tài tùy sức, nỗ-lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài-lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp đỡ quê-hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ-xuất đến đổi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.

            Đó là ta đền ơn đất-nước vậy.

                                             ( SGTVTB 2004: tr. 181-182 )

 

LƯỢC GIẢI :

( Ân Đất Nước )

            Xưa kia Đức Phật dạy là Ân Quân Vương. Hiện giờ Đức Thầy đổi lại là Ân Đất Nước cho phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Là một công dân, ai cũng có bổn phận đối với đất nước (Tổ Quốc).

                        Kẻ phu tá cũng là trọng trách,

                    Cứu giống nòi quét sạch non sông”( ĐT)

            1)  LÝ DO THỌ ƠN :

            Kể từ đời Hồng Bàng dựng nước, ông cha ta đã dày công khai quốc và kiến quốc:

                        Bắc Nam một dãy san hà,

                     Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi”( ĐT)

            Và ra công gìn giữ đất nước, ngày nay chúng ta mới hưởng được tấc đất, ngọn rau và mọi sản phẩm…Cho nên ai cũng phải thọ ơn.

            2) PHƯƠNG CÁCH ĐÁP ƠN :

            Mỗi công dân đều có trách nhiệm:

            a.- Thời bình lo củng cố cho đất nước được phú cường (dân giàu nước mạnh).

            b.- Khi có giặc ngoài thống trị, ta phải góp công vào việc đánh đuổi xâm lăng. Đức Thầy cho biết “Hễ nước mất thì cơ sở của Đạo phải bị lấp vùi; nước còn nền Đạo được phát khai rực rỡ”.

            c.- Hãy tùy tài, tùy sức và tùy thời cơ giúp nước. Đức Thầy hằng dạy:“Nếu chưa đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ suất đến đỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến Đất nước”.

            3)  QUAN NIỆM YÊU NƯỚC :

            Người tín đồ PGHH, lúc đáp ơn Đất Nước không đặt nặng về lợi danh quyền tước mà bị nó trói trăn trong luân hồi sanh tử, nên khi nước nhà được tự chủ (độc lập) thì trở lại vị trí tu hành để được giải thoát.

                        Đền xong nợ nước thù nhà,

            Thiền môn trở gót Phật Đà Nam Mô”( ĐT)

            Ta hãy noi gương nguyên soái Đổng Vân, Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Vạn Hạnh, Sư Đỗ Pháp Thuận và Tuệ Trung Thượng Sĩ…và gần đây có Nguyễn Đa, tức ông Cử Đa…

            4)  LỢI ÍCH NGƯỜI BIẾT ĐÁP ƠN ĐẤT NƯỚC :

            Người đáp ơn Đất nước sẽ được các điều lợi ích:

            a.- Được người đương thời ca ngợi, con cháu hiển vinh.

            b.- Khi chết được thành Thần Thánh:

            Dầu không siêu cũng đặng về Thần,

             Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”( ĐT).

            c.- Sách sử chép ghi, dân chúng muôn đời thờ kính, nhắc nhở:

            Tử vì nước còn ghi linh miếu,

             Thác vì đời thanh sử danh bia”( ĐT).

            Nước ta từ xưa có rất nhiều vị đã thành công, như: nam thì có Trần hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt…nữ có hai Bà Trưng, Bà Triệu…Thời cận đại có Nguyễn Trung Trực , Trần Văn Thành…

            5) TẠI SAO KHÔNG ĐÁP ƠN :

            Người không đáp ơn Đất Nước là kẻ bất trung, sống cuộc đời tiêu cực, ích kỷ, bị người đời khinh rẻ, sách sử chê bai; chết còn phải bị đọa vào chỗ thấp hèn.

            6) KẾT LUẬN :

            Nếu ai đáp ơn Đất Nước đúng theo quan niệm PGHH nói trên, chẳng những được lợi ích hiện tại mà tương lai còn được siêu thoát sanh tử:

            Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”( ĐT),

 

CHÚ THÍCH :

            TRUYỀN THỤ: dạy lại, để tài nghệ lại. Ý nói người trước dạy lại người sau, rồi người sau nữa…

            XÂM LĂNG: Đánh phá để cướp nước người.

            CƯỜNG THẠNH: Cũng viết là cường thịnh. Có nghĩa mạnh mẽ và thịnh vượng, sung túc.

            THỐNG TRỊ: Cai trị, nắm hết quyền cai trị trong nước.

            SƠ SUẤT: Cẩu thả, vô ý. Không cẩn thận.

 

                                                3. Ân Tam Bảo.

 CHÁNH VĂN

            ÂN TAM BẢO : Tam Bảo là gì ? -Tức Phật, Pháp, Tăng.

            Con người nhờ tổ-tiên, cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương diện vật-chất.

            Về phương diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp-đỡ của Phật, Pháp, Tăng, khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần-sanh thoát miền mê-khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-Tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy, và đã vun trồng bồi-đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một toà lầu đài Đạo hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi với hậu-thế.

            Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẩn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm kẻ sa-cơ và nhứt là phải tiếp-tuc khai thông nền Đạo-đức đặng cái tinh thần từ-bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

                                                (SGTVTB 2004, tr. 182-183)

 

LƯỢC GIẢI :

( Ân Tam Bảo )

            Ân Tam Bảo là một trong tứ đại trọng ân, đây thuộc về phần tinh thần.

            1)  LÝ DO THỌ ÂN TAM BẢO :

            Nhờ có Tam Bảo đánh thức, giáo hóa chúng ta mới tỉnh ngộ tu hành, cải ác tùng thiện:

            a.- Vì cảm phục tâm đại hùng, đại lực, đại từ bi và đại nguyện độ tận chúng sanh của Đức Phật.

            b.- Diệu năng của Pháp giới ví như thuyền bè, đèn đuốc, đưa người tu ra khỏi sông mê bể khổ.

            c.- Nhờ đức độ và lời thệ nguyện cứu độ chúng sanh lớn lao của chư Tăng, chúng ta mới trọn niềm kính tin và quyết tâm trì hành theo lời giáo huấn của các Ngài.

            2) TỔ TIÊN TA ĐỐI VỚI TAM BẢO :

            a.-Tổ Tiên ta đã nhận thức lòng quảng ái và sự nghiệp cứu đời của Tam Bảo.

            b.- Đã hành động đúng theo Kinh, Luật, Luận. Cũng đã vun bồi nền Đạo được vững chắc và roi truyền đến ngày nay.

            3)  CÁCH ĐÁP ƠN TAM BẢO :

            a.- Ta có bổn phận kính tin và vâng lời Phật pháp. Noi gương Phật và chư Tăng để học hỏi và hành trì giáo pháp cho mình có trí huệ và giải thoát sanh tử.

            b.- Tiếp tục khai thông Đạo pháp bằng cách: Giảng dạy Đạo lý, ấn tống kinh sách, trợ giúp các tổ chức truyền Pháp để giác tỉnh quần chúng tu hành. Truyền pháp có hai phần: thuyết giáo và hạnh giáo…

            Đức Thầy hằng kêu gọi:

            Cả tiếng kêu cùng khắp chư Tăng,

             Với tín nữ thiện nam Phật giáo.

             Nên cố gắng trau thân gìn Đạo,

             Hiệp cùng nhau truyền bá Kinh lành”.

            Và hãy:“…Giảng giải Đạo Phật cho đại chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy Đạo Phật”.

            4) LỢI ÍCH SỰ ĐÁP ƠN TAM BẢO :

            Người nào đáp được ơn Tam Bảo, sẽ được các điều lợi ích đáng kể:

            a.-Không đắc tội với Tam Bảo, tiền nhân và hậu thế.

            b.- Phước đức siêu thượng, trí huệ sớm phát khai.

            c.- Gieo duyên lành với nhiều người và độ được vô số chúng sanh chứng chơn giải thoát.

            d.- Sớm hoàn thành quả Tam giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.

            “Từ đây đến buổi thanh bình,

            Muôn người niệm Phật quả mình biết bao”( ĐT)

            5) TAI HẠI CỦA NGƯỜI KHÔNG ĐÁP ƠN TAM         BẢO:

            Người đã thọ ơn Tam Bảo mà chẳng lo tu học hoặc không đền đáp, tất vương các điều hại:

            a.- Đắc tội với tiền nhân và hậu thế.

            b.- Mang tội ngũ nghịch và chôn lấp thiện căn.

            c.- Vô lượng kiếp tối dốt, chết đọa 3 đường ác.

            6) KẾT LUẬN :

            Là môn đồ nhà Phật, chúng ta phải đáp đền ơn Tam Bảo bằng cách cố gắng phụng hành và phổ truyền chánh pháp để tất cả chúng sanh có cơ thức tỉnh tu hành, vượt khỏi vòng khổ đau sanh tử.

 CHÚ THÍCH :

            TAM BẢO: Ba ngôi quí báu, tức: Phật, Pháp, Tăng. Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, toàn thiện, toàn mỹ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Pháp là lời của Phật thuyết ra để giáo hóa chúng sanh. Tăng là các đại đệ tử của Phật, bậc giới hạnh tinh nghiêm, thường nối tiếp ngọn đuốc huệ của Phật mà giác tỉnh chúng sanh.

            Đó là phần sự tướng và lịch sử Tam Bảo. Còn phần lý tánh Tam Bảo gồm có: Tự tâm giác ngộ là Phật Bảo. Tự tâm chơn chánh là Pháp Bảo. Tự tâm thanh tịnh là Tăng Bảo.

            PHƯƠNG DIỆN: Một mặt, một khía cạnh hay một phần.

            VẬT CHẤT: Những cái gì có hình tướng, rờ nắm được, thấy được.

            TINH THẦN: Linh hồn hay thần thức…phần vô hình.

            TOÀN THIỆN TOÀN MỸ: Hoàn toàn tốt lành sáng suốt.

            KHỔ HẢI: Biển khổ. Ý nói sự khổ của chúng sanh quá nhiều mênh mông như bể cả. Đức Thầy bảo:

            Thoát nơi khổ hải liên đài được lên”.

            BAN BỐ: Cấp phát truyền rải cho đều.

            QUẦN SANH: Chỉ chung các giới chúng sanh.

            TÍN NHIỆM: Tin cậy, trọn lòng tin tưởng.

            NHIỆM MẦU: Cũng gọi là mầu nhiệm. Có nghĩa sâu kín và mầu diệu vô cùng:“Đạo mầu thâm diệu nan tri lão bày( ĐT).

            QUẢNG ÁI: Thương yêu rộng lớn. Đức Thầy từng nói: “Lòng quảng ái xót thương nhân chủng”.

            CHÚNG SANH: Chỉ chung các loài có tri giác, có mạng sống. Phân làm 4 loại:

            1/-Thai sanh: các loài sanh bằng bào thai.

2/-Noãn sanh: các loài sanh bằng trứng.

3/-Thấp sanh: các loài sanh nơi ẩm thấp.

4/-Hóa sanh: các loài sanh bằng cách hóa sanh.

            PHÁT TRIỂN: Mở mang ra.

            SÙNG BÁI: Kính trọng và tôn thờ lễ bái.

            VÔ THƯỢNG: Cao tột, không có gì cao hơn. Đức Thầy bảo:“Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền”.

            VÔ SONG: Không có tới hai, không có gì bì kịp.

            ROI TRUYỀN: Cũng gọi là truyền roi. Có nghĩa truyền dạy lại cho người sau noi theo.

            Lời lành của Phật truyền roi”( ĐT).

            HẬU THẾ: Đời sau, người sau.

            CHÍ ĐỨC: Chí nguyện và đức độ cao cả.

            Noi chí đức Hoàng Thang luật chế”( ĐT).

            TIỀN NHÂN: Người đời trước.

            MINH MẪN: Sáng suốt thông hiểu:“Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện( ĐT).

            KHAI THÔNG: Mở mang thông suốt.

            VĨ ĐẠI: To lớn.

            GIẢI THOÁT: Cởi mở sự ràng buộc đeo níu, thoát khỏi 6 nẻo luân hồi sanh tử. Đức Thầy nói:“Miễn sanh chúng thông đường giải thoát”.

            SA CƠ: Cũng viết là sơ cơ. Chỉ cho kẻ mới phát tâm tu hành, hoặc những người bị sa ngã theo tứ đổ tường hay chìm đắm trong biển sanh tử.

 

    4a.  Ân Đồng Bào và Nhân Loại .

 CHÁNH VĂN

            ÂN ĐỒNG BÀO VÀ NHÂN LOẠI : Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh, và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.

            Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng: ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn: họ cùng chịu với ta.

            Họ và ta cùng một màu da, cùng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy là Quốc-gia đó. Họ là ai ? Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.

            Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực-rỡ trong bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp đỡ họ hầu đáp-đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

            Chẳng những thế thôi, ngoài đồng-bào, ta còn có thế-giới người đang cặm cụi cần lao cung cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào ? Ta có đủ vật-liệu để dùng chăng ? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng ? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, với những lúc ốm-đau, nguy-biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng ? Hẳn không vậy. Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình.

            Vả lại cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xoá bỏ hết các tầng lớp đẳng cấp xã hội, mà chỉ đặt vào một: Nhân Loại Chúng Sanh.

            Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình, gây ra tai-hại cho các dân-tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hoà, một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn-nạn.

                                            ( SGTVTB 2004, tr. 183-185 )

             

LƯỢC GIẢI :

( Ân Đồng Bào Nhân Loại )

            Ở đời không ai có thể sống riêng biệt, mà phải có sự tương quan với các dân tộc trong đất nước mình và với các dân tộc các nước bạn có mặt trong quả địa cầu. Ấy gọi là đồng bào và nhân loại.

            1)  LÝ DO THỌ ƠN ĐỒNG BÀO :

            a.- Kẻ thiếu vật nầy, người thiếu vật khác nên cần phải mua bán trao đổi nhau.

            b.- Tương trợ lẫn nhau khi có tai nạn: thiên tai, địa ách, chiến tranh, đau yếu…

            2)  LÝ DO THỌ ÂN NHÂN LOẠI  :

            a.- Bởi phong hóa và nếp sống giữa nhân loại khác nhau và sự phát minh có mau chậm; không đủ vật liệu cần dùng, nên cần có mua bán và viện trợ lẫn nhau khi thiếu hụt hoặc tai nạn.

            b.- Cùng nhau trao đổi mọi mặt: văn hóa, xã hội, khoa học, kinh tế…

            3)  CÁCH ĐÁP ƠN ĐỒNG BÀO :

            a.- Phải biết thương yểu liên kết và giúp đỡ đồng bào từ tinh thần lẫn vật chất.

            b.- Không nên vì lòng tham lam, vị kỷ mà gây khổ cho đồng bào, Đức Thầy đã cảnh giác:

            “Đồng bào nỡ giết nhau chi,

             Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông”.

            Cho nên Ngài hằng khuyên:

             Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống,

            Tha thứ nhau để sống cùng nhau.

             Quí nhau từng giọt máu đào,

            Để đem máu ấy tưới vào địch quân”.  

            4)  CÁCH ĐÁP ƠN NHÂN LOẠI :

            a.- Hãy nhận thức và thi thố lòng từ bi, bình đẳng của Đức Phật đối với cả nhân loại.

            b.- Đặt tình thương yêu đoàn kết, không phân biệt màu da, chủng tộc:

            Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

             Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”( ĐT).

            c.- Nỗ lực phát triển tinh thần lẫn vật chất.

            d.- Không nên vì mình hay đồng bào mình gây đau thương cho dân tộc khác hay nhân loại.

            e.- Hãy lấy đức nhân hòa, bình đẳng, hỉ xả, từ bi đối xử với cả nhân loại để xây dựng nền an vui hạnh phúc và bác ái đại đồng.

            Đem nguồn sống mới cho nhân loại,

             Để tiến, tiến lên cõi đại đồng”.

            5)  LỢI ÍCH :

            Người đáp được ân đồng bào và nhân loại sẽ được nhiều lợi ích đáng kể:

            a.- Đem lại nếp sống tự do, bình đẳng cho đồng bào và nhân loại, thế giới hết chiến tranh.

            b.- Được đời ca ngợi là bực Hiền Thánh.

            c.- Khi lâm chung đặng siêu thoát.

            6)  TAI HẠI :

            Nếu người không đáp ân đồng bào và nhân loại, sẽ gặp nhiều tệ hại:

            a.- Đưa dân tộc mình đến chỗ lạc hậu.

            b.- Sống lối ích kỷ tổn nhân.

            c.- Chết đọa ba đường ác.

            7) KẾT LUẬN :

            Đại lược, con người không ai sống đơn độc. Nếu có tương quan tất có thọ ơn đồng bào nhân loại. Thế nên ta cần phải lo đền đáp cho trọn vẹn để được phúc báo trong hiện tại, và tương lai sẽ đặng siêu thoát khổ đau sanh tử.

 

CHÚ THÍCH :

            ĐỒNG BÀO: Cùng một bọc, một bào thai sanh ra. Đồng bào có hai nghĩa:

            1/-Nghĩa rộng là những người cùng sống chung một vòm trời, một giồng đất hay một giống dân (cũng gọi là Trời cha Đất mẹ).

            2/-Nói riêng về giống Việt Nam thì do truyền thuyết bà Âu Cơ, vợ vua Lạc Long Quân sanh ra một cái bọc, có 100 trứng, nở ra 100 người con. Tương truyền 100 người con ấy sản sanh giống Việt Nam, nên dân tộc ta thường gọi nhau bằng đồng bào:

                 Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông.

                           Nắm tay trở lại cánh đồng,

             Cần lao nhẫn nại Lạc Long Tổ truyền”( ĐT).

            NHÂN LOẠI: Loài người. Chỉ cho các dân tộc sống chung trong quả Địa cầu.

            NIÊN KỶ: Số năm, tuổi tác.

            PHONG VŨ: Gió và mưa, chỉ cho thời tiết.

            QUỐC GIA: Nhà nước hay nước nhà.

            CHỦNG TỘC: Nòi giống.

            OANH LIỆT: Khí khái anh hùng hay công nghiệp lừng lẫy.    

            TƯƠNG TRỢ: Giúp đỡ lẫn nhau.

            TIỀN ĐỒ: Con đường tương lai.

            NGUY BIẾN: Tai biến ngặt nghèo.

            GIANG SAN: Sông núi. Ý chỉ cho đất nước.

            LIÊN QUAN: Liên hệ giữa nhau.

            MẬT THIẾT: Gần sát nhau, thân mật nhau.

            MUÔN MỘT: Một phần trong muôn phần.

            THẾ GIỚI: Cũng viết là thế gian. Có nghĩa gồm cả không gian và thời gian. Nghĩa thứ hai là vũ trụ hoàn cầu, chỉ chung cho các nước trên mặt đất. Ví dụ: Thế giới ta bà chúng ta đang sống.

            CẶM CỤI: Cần cù, cố gắng.

            CẦN LAO: Siêng năng khó nhọc.

            CUNG CẤP: Tiếp giúp cho, cấp phát cho.

            NHU CẦU: Cần dùng mà tìm kiếm.

            CẦN THIẾT: Cần có mới được.

            ĐỊA CẦU: Trái đất.

            TỰ TÚC: Tự làm cho mình được đầy đủ.

            NHIỆT HÀN: Nóng nực và rét lạnh.

            ĐỒNG CHỦNG: Cùng chung một nòi giống.

            TỪ BI: Hai trong bốn đại đức của chư Phật. Hán học giải là hiền lành thương xót. Phật học giải là ban vui cứu khổ; do câu:“Từ năng dữ nhứt thiết chúng sanh chi lạc, Bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ”. Đức Thầy có giải:

            1.- Đức Từ: Phật đối với chúng sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não”.

            “2.- Đức Bi: Nếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe làm điều độc ác để phải tội, thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng(SGTVTB2004, tr. 452.

            BÁC ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn.

            THÂM HUYỀN: Sâu kín mầu nhiệm.

            QUẢNG HUỢT: Rộng rãi bao la.

            NHÂN HÒA: Lòng thương yêu hòa hài tốt đẹp và thích hợp. Đức Thầy có câu:

             Lúc sống sanh tìm lấy cuộc nhơn hòa,

             Chữ thuận thảo hay hơn là tranh đấu”.

            HỈ XẢ: Thường an vui và không câu chấp, vướng mắc. Là hai trong bốn đại đức của chư Phật. Đức Thầy có giải:

            “3. Đức Hỉ: thường thường an vui mà làm những việc lành, dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn bã”.

            “4. Đức Xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền trần, tha thứ hết thảy những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh tài sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.(SGTVTB 2004, tr.452).

            HOẠN NẠN: Tai nạn, gian lao khổ sở.

            THIỆN NAM: Phiên âm Phạn ngữ Ưu-bà-tắc, dịch là Cận sự nam. Có nghĩa: hàng nam giới tu tại nhà, thọ tam qui ngũ giới, thường thân cận các chùa lễ Phật nghe Pháp và giúp đỡ các Tăng Ni.

            TÍN NỮ: Phiên âm Phạn ngữ là Ưu-bà-di, dịch là Cận sự nữ, tức chỉ cho hàng nữ giới tu tại gia thọ tam qui ngũ giới. Thường thân cận các chùa lễ Phật nghe Kinh pháp và giúp đỡ các Tăng Ni.

            HẢO TÂM: Lòng tốt đối với mọi người.

            CHƠN LÝ: Lý lẽ chơn thật, lẽ phải. Chơn lý cũng gọi là Đạo. Đức Thầy có viết:

            Bàn với luận đặng coi chơn lý”.

            CHIẾU CỐ: Đoái tưởng và chăm sóc đến.

 

 4b. Ân Đàn Na Thí Chủ.

 CHÁNH VĂN

            Đối với những kẻ xuất-gia quy-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu ân của các đàn-na thí chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo-tâm cung-cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống. Rốt lại, họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.

            Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng cho nên họ phải dìu-dắt sinh-linh đi tầm Chân-lý đặng đáp-tạ tấm lòng chiếu-cố của Thiện tín.

                                                      (SGTVTB 2004, tr. 185)

 

LƯỢC GIẢI :

( Ân Đàn Na Thí Chủ )

            Các Tăng Ni xuất gia ngoài việc thọ bốn điều ân vừa kể qua, còn phải chịu thêm ân “Đàn Na Thí Chủ”.

      1)  LÝ DO THỌ ƠN :

            a.- Chư thiện tín quan niệm rằng: Các Tăng Sư không có sinh hoạt đời sống, chỉ lo Phật sự, tự giác, giác tha. Là bậc đại phước điền của chúng sanh.

                  b.- Nên, các nhà hảo tâm thường giúp đỡ các Tăng, Ni mọi phương tiện: cơm ăn, thuốc uống, y phục và các phương tiện nghỉ ngơi.

      2) CÁCH ĐÁP ƠN :

            a.- Mỗi Tăng Ni đều phải noi gương Đức Phật tu hành cho đến khi thành quả.

      b.- Phát đại nguyện độ tận chúng sanh.

      c.- Cố gắng học và hành trì Kinh pháp.

      d.- Giác tỉnh thiện tín tầm ra chơn lý tu hành.

      3)  LỢI ÍCH ĐÁP ƠN ĐÀN NA :

      Người đáp được ân Đàn Na sẽ đặng lợi ích:

      a.- Gieo duyên lành với khắp cả.

            b.- Độ đặng vô số chúng sanh tu hành giải thoát.

            c.- Chính mình cũng mau đạt quả vô thượng Bồ đề.

            4)  TAI HẠI KHÔNG ĐÁP ƠN ĐÀN NA :

            a.- Bị xa lần Chánh Đạo, chôn lấp thiện căn.

            b.- Luân hồi vô lượng kiếp báo đền nghiệp nợ. Kinh xưa đã bảo:

            “Thập phương nhứt lạp mễ,

             Như đại Tu Di sơn.

            Thực liễu bất tu Đạo,

             Phi mạo đái giác hườn”.

            (Một hột cơm của “Đàn na thí chủ” nặng như hòn núi Tu Di. Nhà tu dùng rồi mà chẳng lo tu cho đắc Đạo thì phải luân hồi mang lông đội sừng, tức làm thú, để đền trả.)

            5) KẾT LUẬN :

            Hạnh tu xuất gia là hạnh giải thoát cao cả, song ân “Đàn na thí chủ” cũng nặng lớn vô biên. Hành giả phải hy sinh từ vật chất lẫn tinh thần và thực hiện lòng tự giác, giác tha cho đến khi giác hạnh viên mãn.

            Nếu xuất gia thì phải hy sinh,

             Cả vật chất tinh thần lo Đạo”( ĐT).

 

TỔNG KẾT PHẨM “TỨ ĐẠI TRỌNG ÂN”:

            Phẩm báo “Tứ Đại Trọng Ân” khi xưa Đức Phật đã dạy chư Bồ Tát trì hành để đạt đại thừa trong Phật Đạo. Ngày nay Đức Giáo Chủ PGHH đặt Tứ Ân trong phần Nhân Đạo thì đủ biết Đạo Nhân của Ngài dạy siêu thượng đến chừng nào !

            Căn cứ theo tôn chỉ PGHH, Tứ Ân là phần ân nợ. Nếu ai thi hành được, chẳng những đáp đặng phần ân nợ mà còn tạo được vô lượng phước đức để làm món tư lương bước lên thuyền trí huệ, tiến sang bờ giác:

                        Tu đền nợ thế cho rồi,

              Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen(ĐT).

LUẬN VỀ TAM NGHIỆP

 

CHÁNH VĂN

          Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay không, cũng phải chịu sự chi phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào một chữ Đạo. Đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân”, và nó là một con đường, đi trúng thì sống, bước trật tất chết. 

          Muốn làm tròn Nhân Đạo, phải giữ vẹn Tứ Ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam Nghiệp và chừa Thập Ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng thiếu nợ.

          Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây:

– Thân-nghiệp:( tội lỗi do xác thân gây nên);

– Khẩu-nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên);

– Ý-nghiệp: (tội lỗi do ý tưởng gây nên).

          Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây:

    – Thân-nghiệp sanh 3 điều ác :

1) Sát-sanh,

2) Đạo-tặc,

3) Tà-dâm.

    – Khẩu-nghiệp sanh 4 điều ác:

1) Lưỡng-thiệt,

2) Ỷ-ngôn,

3) Ác-khẩu,

4) Vọng-ngữ.

  – Ý-nghiệp sanh 3 điều ác:

1) Tham-lam,

2) Sân-nộ,

3) Mê-si.

(SGTVTB 2004, tr. 186)

 

LƯỢC GIẢI :

          Mỗi chúng sanh trong trần, ai ai cũng phải đi theo định nghiệp của Nhân và Quả. Định nghiệp ấy cũng gọi là Đạo, tức là do thân tâm của mình tự tạo rồi hưởng lấy. Cho nên cũng gọi nó là con đường, nếu làm lành, tức đi trúng thì sống, bằng tạo hung dữ, tức là đi trật ắt chết.

        Vậy ai muốn cho mình được trọn lành để sống thì đồng thời với đáp tứ ân, cần phải trừ ba nghiệp chướng và tránh 10 điều ác.

 

CHÚ THÍCH :

        CHI PHỐI: Cầm giữ sai khiến, chỉ huy, điều khiển.

        ĐỊNH LUẬT: Luật lệ đã định sẵn không sai chạy. Đây chỉ cho định luật nhân quả.

        THIÊN NHIÊN: Tự nhiên, phải như vậy. Cũng chỉ cho luật tạo hóa hay luật nhân quả.

        ĐẠO: Chữ Đạo có ba nghĩa.

        1/-Đạo là con đường của tâm hồn: Có nghĩa ai tạo nghiệp nào, khi thác sanh về cảnh giới ấy. Đức Thầy bảo:

        “Địa ngục cũng tại tâm làm quấy,

           Về thiên đàng tâm ấy tạo ra.

           Cái chữ tâm mà quỉ hay ma,

           Tiên hay Phật cũng là tại nó”.

        2/-Đạo là bổn phận: Có nghĩa: người ở vào địa vị nào thì sử dụng đúng theo phận sự nấy, như: Đạo vua tôi, thầy trò, cha con, chồng vợ, huynh đệ và bè bạn. Đó là về phần “tu Nhân” xử thế. Còn phần nội tâm “tu Phật” Đức Thầy có dạy:“Cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với trời Phật, của mình đối với mình.

        3/-Đạo là bản thể tuyệt đối: Tức là cái chơn tâm diệu minh của mỗi người, tạm chia làm 3 phần: TƯỚNG, DỤNG và THỂ:

        -Với cặp mắt thường nhân ta nhìn vào cái Đạo thấy có vị trí chùa am, kinh văn giáo điển; nhưng thật thể của nó là chẳng có hình tướng, sắc màu hay ngữ ngôn đối đãi, nên gọi có mà không là TƯỚNG của ĐẠO.

        -ĐẠO vốn không có hình tướng sắc màu hay văn từ ngôn ngữ, nhưng vì có nhiệm vụ cứu độ chúng sanh nên phải vào đời áp dụng mọi phương tiện tổ chức và Kinh pháp để giáo hóa nhân sanh; nên gọi không là DỤNG của ĐẠO.

        -ĐẠO tuy không có hình tướng sắc màu hay văn từ ngôn ngữ và cũng chẳng có tên chi gọi được:(Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh). Nhưng trong cái không nầy nó hàm chứa cái mầu nhiệm sáng suốt vô cùng tận, chẳng thể nghĩ lường được, cho nên gọi Không mà chẳng Không là THỂ cuả ĐẠO.

        Do đó, hễ nói tới Đạo tức nói tới tâm.“Đạo không rời bản tâm”.

        “Đạo tại tâm, tâm Đạo tích tùng,

         Tùng tâm Đạo mới là Phật Đạo”.

                                (Giảng Xưa)

        ĐẠO NHÂN: Cũng gọi là Nhân Đạo. Có nghĩa Đạo làm người, bổn phận làm người. Đức Thầy khuyên:“Rán tu nhân Đạo cho tròn mới hay”.

        ĐI TRÚNG THÌ SỐNG, BƯỚC TRẬT TẤT CHẾT: Câu nầy có nghĩa ai thi hành đúng theo con đường nhân đạo của Đức Thầy đã vạch, tuy xác thân cũng chết, nhưng linh hồn được siêu thoát và danh tốt được muôn đời nhắc nhở, nên gọi là sống. Bằng hành sai con đường Đạo thì xác thể chết, linh hồn bị đọa lạc trầm luân và tiếng xấu lưu mãi tới đời sau. Ấy gọi là chết.

        NGHIỆP CHƯỚNG: Nghiệp là việc làm, là nguyên nhân gây tạo; chướng là quả, là ngăn che trở ngại. Kinh Phật giải nghiệp chướng có ba món: – Phiền não chướng, Nhân chướng và Báo chướng. Đức Thầy giải là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp.

        Do ba nghiệp chướng ấy, gây tạo 10 điều ác rồi bị quả báo trả lại làm chướng ngại con đường giải thoát của mình:“Nghiệp chướng lăng loàn hại xác thân”.( ĐT)

 

       

1.- ÁC SÁT SANH

 

CHÁNH VĂN

          SÁT SANH.- Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.

          Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hềm, vì háo thắng … nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã-hội, của một quốc-gia; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.

          Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do đã kể trên. Đó là người đối với người.

          Người đối với thú cầm sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi mà không nên hoang phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế-lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời Đất có thể sát sanh hại vật cúng tế cầu cho tội-quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm, huyễn-hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên-nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền các tội ác trước được.

          Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú-vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân-loại vậy.

          Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia-súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo … chẳng khá sát-hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cử hẳn.

                                        (SGTVTB2004, tr.187-188)

 

LƯỢC GIẢI :

          1- ĐỊNH NGHĨA:

        Sát sanh là giết hại mạng sống của loài hữu tình. Kể cả loài người và các sanh vật.

        2.-  NGUYÊN NHÂN SANH HUNG ÁC :

        Vì sống chung với người hung dữ ở chung quanh, rồi ô nhiễm những điều xấu xa, con người trở nên độc ác. Đức Thầy đã bảo:

        “Sách Thánh Đạo ghi trong Tam Tự,

           Người mới sanh tánh thiện trời dành.

           Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh,

           Nên tật xấu che mờ thiện tánh”.

      3.- LÝ DO NGƯỜI GIẾT NGƯỜI :

        a) Vì muốn đạt được danh, lợi, tình hay vì thù hềm, hoặc háo thắng.

        b) Vì mưu cầu lợi ích riêng cho mình, cho phe nhóm, quốc gia mình mà sanh tâm sát hại kẻ khác, nước khác.

        4.- CẢNH TRẠNG :

        a) Nhân loại khắp thế giới: dân tộc nước nầy đánh giết dân tộc nước khác.

        b) Trong trào nội: Vua tôi, quan lính giết nhau.

        c) Ngoài lê thứ: Thầy trò, chủ tớ, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn cùng xâu xé, giết hại lẫn nhau.

        Đức Thầy đã diễn tả cảnh trạng ấy:

         “Viết đến đây động lòng rào rạt,

          Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân.

          Nào kể chi là Đạo Quân thần,

          Tôi giết chúa, con đành sát phụ.

          Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,

          Trò giết thầy, tội ấy đáng không ?

          Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,

          Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.

          Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,

          Giành của tiền cốt nhục giết nhau.

          Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,

          Tình nhân loại phân chia yểm bách.”

        5.- LÝ DO NGƯỜI GIẾT VẬT :

a) Vì muốn ăn ngon (thỏa thích khẩu dục).

        b) Vì sự mê tín và cúng tế ông bà.

        c) Vì sự vui thích, ỷ mạnh hiếp yếu mà sát hại các sanh vật.

        6.-  TÁC HẠI :

        a) Người tạo nghiệp sát hại thì kiếp nầy hoặc kiếp khác thường bị thân hình xấu xí, bệnh tật, chết yểu.( Xưa có đứa bé bắn một con chim mà phải ba kiếp chết yểu. Còn 3 người lái buôn vui vẻ ca ngợi tài bắn của đứa bé mà phải làm cha để chịu khổ cùng đứa bé.)

        b) Luôn gặp nạn chiến tranh binh lửa.(Dân chúng thôn Chi Việt bắt tôm cá dưới hồ Đa Ngư ăn thịt, sau tiến lên là dân chúng dòng họ Thích. Còn loài thủy tộc dưới hồ Đa Ngư, sau tiến lên là vua Lưu Ly, Háo Khổ và binh lính của Lưu Ly, sau cùng kéo quân đến tiêu diệt dòng họ Thích để thanh toán món nợ từ trước.)

        c) Nghiệp báo lưu truyền nhiều đời nhiều kiếp.

        7.- GIẢI TRỪ:

        Để giải trừ ác sát sanh, ta nên thi hành các phương cách như sau:

        a) Phát sanh lòng từ bi bình đẳng, tin luật nhân quả rất nghiêm minh. Đối với nhân loại thì “Chớ sát hại mạng người như thế: “Nếu thiệt người thì biết thương người( ĐT) .

        b) Đối với sanh vật chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” mà phải xét rằng sanh vật cũng có linh hồn, thân xác, tham sống, sợ chết như ta. Nên không giết chúng vô cớ mà phải hạn chế thức ăn vừa đủ nhu cầu, nếu trường chay được càng tốt.

        c) Không vì mê tín dị đoan, hoặc cúng tế ông bà hay vì sự vui thích mà giết vật. Đức Thầy hằng khuyên dạy:

         “Bớt giết vật đặng mà cúng tế,

          Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.

          Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,        

          Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.

          Phải ăn năn phước điền tạo tác,

          Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời.

          Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,

          Xuống phước rộng Từ Bi Hỉ Xả.

          Đấng Thần minh công bình trực dạ,

          Đâu ăn lo đổi họa làm may.

          Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy,

          Điều họa phước ấy cơ báo ứng”.

        8.- LỢI ÍCH :

        a)- Ai chừa được ác sát sanh thì thân hình đẹp đẽ, ít bệnh tật, sống lâu và thoát khỏi luân hồi quả báo. Cửu Huyền Thất Tổ bớt tội, mau siêu thăng. (Xưa, có lần Phật dắt A Nan đi đến mé biển. Thấy có đám ngạ quỉ vừa đi, vừa bị lửa đốt than khóc thảm thiết, A Nan bạch hỏi lý do, Phật đáp: “Vì con cháu của họ chẳng những không tu nhơn tích đức, lại còn sát sanh hại vật cúng tế theo lối dị đoan, nên họ bị nghiệp quả bức bách mà than khóc như vậy”. Đi một đỗi nữa lại gặp một số ngạ quỉ khác, vừa đi vừa ca hát vui mừng. A Nan cũng bạch Phật hỏi lý do, Phật đáp: “Sở dĩ số ngạ quỉ nầy vui mừng là vì con cháu của họ trên dương thế biết lo tu hành, trường chay giới sát, làm phước phóng sanh hồi hướng phước đức cho họ, nên họ sắp được vãng sanh mà vui mừng như vậy”).

        b)- Lòng từ bi bình đẳng ngày càng vươn lớn và sớm trổ quả Bồ đề. (Phật kể tiếp, tiền thân Ngài xa xưa có lần  bị đọa làm thân quỉ sứ. Ngài cùng quỉ sứ bạn đẩy xe cho quỉ sứ chúa đi. Quỉ sứ bạn làm xe nghiêng, quỉ sứ chúa nghiềm xà mâu đâm quỉ sứ bạn. Quỉ sứ tiền thân Phật động lòng nhơn can gián. Quỉ sứ chúa liền trở xà mâu đâm quỉ sứ tiền thân Phật chết tốt…Nhờ đó mà Ngài thoát được kiếp quỉ sứ. Nhờ hạt giống từ bi ấy mà nhiều kiếp về sau Ngài đạt thành đạo quả Bồ đề).

          9) KẾT LUẬN :

          Đại lược, Ác Sát Sanh là đứng đầu trong thập ác. Nó cũng chính là hạt giống trong cảnh luân hồi sanh tử. Hành giả có diệt trừ được nó thì đạo quả  sớm được trọn lành, lòng từ bi, bình đẳng phát sanh, để tiến đến ngôi chánh đẳng chánh giác.

 

CHÚ THÍCH :

        BẠO NGƯỢC: Hung dữ ngang ngược.

        Ô NHIỄM: Cũng gọi là nhiễm ô. Có nghĩa đắm nhiễm theo việc nhơ xấu đen tối.

        LỢI DANH: Tài lợi và danh vị (hai điều trong lục dục của Đạo Nho: danh, lợi, sắc, ích kỷ, hư vọng, tật đố; lục dục thường đi kèm thất tình: Hỷ/mừng, nộ/giận, ai/đau đớn, cụ/sợ sệt, ái/yêu, ố/ghét, dục/ham muốn – PHTĐ Đoàn Trung Còn). Con người vì tham danh lợi, mãi mãi đắm chìm trong biển khổ sanh tử. Đức Thầy hằng khuyên:

                Xin đừng đeo đắm lợi danh,

           Bỏ trôi Đạo đức hư danh dạy truyền”.

        THÙ HỀM: Chứa mối thù trong lòng hầu làm cho lợi gan:“Cứ lo tranh đoạt thù hềm với nhau”( ĐT).

        HÁO THẮNG: Thích tranh đua, muốn ra mặt hơn người, không khiêm nhượng:

        “Bị háo thắng việc người không thấy,

            Rồi mảng lo gièm siểm nhiều lời( ĐT).

        TƯƠNG TÀN TƯƠNG SÁT: Giết hại lẫn nhau. Giữa thân bằng, đồng bào, cốt nhục giết chóc lẫn nhau.

        CẦM THÚ: Thú là gồm các loài thú sống trên mặt đất. Cầm là các loài chim. Chỉ chung cho các giới súc sanh.

        DỊ ĐOAN: Dị là lạ; Đoan là manh mối. Chỉ cho các tà đạo hay bày ra những điều mị dối lạ lùng để gạt gẫm người đời (Chuyện Vô Não bị Thầy Bà La Môn gạt gẫm…). Đức Thầy khuyên:

        Bỏ dị đoan mới thấy Đạo mầu,

           Bớt giả dối gặp người thượng cổ”.

        MÊ TÍN: Sự tin tưởng mù quáng, nhắm mắt tin càn, không suy xét cẩn thận.

        HOANG PHÍ: Xài lãng phí, dùng quá nhiều, quá dư, không đúng nhu cầu cần thiết.

        TỘI QUẢ: Gây nhân tội lỗi rồi bị quả báo.

        HUYỄN HOẶC: Lừa dối để gạt người dễ lầm.

        SIÊU HÌNH: Phần chơn linh, không có hình tướng.

        THÁNH: Là bậc sáng suốt, tài năng, đạo đức hơn người và hay giúp đời nên sau khi từ trần được người đời tôn kính là Thánh.

        THẦN: Là các vị trung quân ái quốc, nhân nghĩa công bằng, nên khi quá vãng được mọi người xưng tụng là Thần:

        Dầu không siêu cũng đặng về Thần,

           Nhờ hai chữ trung quân ái quốcĐT) .

        NGUYÊN NHÂN: Cái cớ, cái gốc đầu tiên, do đó mà sanh ra một kết quả gì.

        HỌA HOẠN: Tai nạn, sự rủi ro.

        CĂN TIỀN: Gốc trước:

        “Rủi ốm đau bởi tại căn tiền”( ĐT)

        ĂN NĂN: Nghĩa của chữ “Sám hối”, tức là ăn năn lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau (Sám kỳ tiền khiên, Hối kỳ hậu quá). Đức Thầy thường dạy:

        Chữ tự hối nào ai có lạ,

          Là ăn năn cải sửa tâm lành”.

        PHƯỚC ĐIỀN: Ruộng phước. Ý chỉ sự tu phước, như: bố thí, giúp đời, làm các việc từ thiện…Bởi các việc ấy có năng lực tăng trưởng phước đức cho nhà tu. Ví như nhà nông gieo lúa xuống ruộng tốt, đến mùa thu hoạch lúa được nhiều. Phật dạy có ba miếng ruộng tốt nhất:

        1) ÂN ĐIỀN, cũng gọi là “Báo ân phước điền”, có nghĩa đáp ơn rộng lớn của Tổ Tiên cha mẹ.

        2) KÍNH ĐIỀN, cũng gọi là “Công đức phước điền”, có nghĩa đền đáp hồng ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).

        3) BI ĐIỀN, cũng gọi “Từ bi phước điền”, có nghĩa mở lòng thương và cứu tế vạn loại chúng sanh. Đức Thầy dạy:“Phải ăn năn phước điền tạo tác”.

        CAO HỨNG: Hứng thú cao mạnh hơn lúc thường.

        SINH HOẠT: Làm ăn sanh sống.

        SÁT SANH VÔ CỚ: Giết hại sanh vật không có duyên cớ chánh thức, như đủ ăn rồi mà còn giết thêm, hoặc giết quá dư rồi bỏ (lãng phí).

 

 

2.- ÁC ĐẠO TẶC

 

CHÁNH VĂN

          ĐẠO TẶC.-  Câu “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô Đạo. Những kẻ này ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã-hội này, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội-nhân gây ra những tai biến trong những gia-đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo sự khó, họ phá hoại hạnh-phúc của con người.

          Cơ-hàn đói khổ, thay vì phải làm-lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới Trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu ăn-năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi-nghĩa.

                                      (SGTVTB 2004, tr. 188-189)

 

LƯỢC GIẢI :

          1.- ĐỊNH NGHĨA:

        Đạo tặc là trộm cướp gian lừa, ác thứ hai trong thân Nghiệp. Vô công mà lấy của quốc gia hay của người khác về làm của mình đều gọi là Đạo tặc.

        2.- NGUYÊN NHÂN:

        Vì ý muốn không làm có ăn, không lo có mặc, nên kẻ trộm cướp thường mượn câu:“Bần cùng sanh đạo tặc, Phú quới tác lễ nghi” để chữa mình.

        3.- HÀNH TRẠNG:

        a) Hành động kẻ đạo tặc là gây nên thảm trạng: trộm cướp sát nhân, sống ngoài vòng pháp luật, phá rối an ninh và hạnh phúc mọi người.

        b) Lường gạt, chiếm đoạt của công hoặc tư, đến như những đồ vặt vụn: củi đuốc, trái cà, trái ớt cũng vơ vét về làm của mình.

        4.- TAI HẠI:

        Những kẻ hành nghề đạo tặc là lớp người cặn bã của xã hội, sống bị đời khinh miệt, luật pháp phân xử, chết bị luân chuyển báo đền…(như câu chuyện “Thập Bát La Hán”…hoặc “Anh học trò thi rớt và con lừa” của ông Bàn Công Cư Sĩ).

        “Tội chập chồng đâu biết ở mô,

          Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi”( ĐT).

        5.- GIẢI TRỪ:

        a) Muốn giải trừ ác đạo tặc, trước nhứt ta phải nghĩ đến công mồ hôi nước mắt của người tạo ra tiền của.

        b) Phải ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân và bỏ điều phi nghĩa. Luôn nhớ lời cảnh tỉnh của Đức Thầy:

         “Hãy tu thân chừa thói vô nghì,

          Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.

          Luật nhân quả thật là cao viễn,

          Suốt cổ kim chẳng lọt một ai”.

        6.-  LỢI ÍCH :

        Người chừa đặng ác Đạo tặc sẽ được lợi ích:

        a) Tiền của không bị nạn nước lửa, lường gạt, cướp giựt hay con cháu phá tán.

        b) Được mọi người chung quanh yêu kính và thân tâm thường phúc lạc yên ổn.

        Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,

           Cứ bền chí có ngày thong thả”( ĐT).

        7.-  KẾT LUẬN :

        Nói tóm lại, ác Đạo tặc là một trong 10 điều ác, cũng là một trong ngũ giới cấm: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu. Nhà tu diệt trừ được nó chẳng những an vui trong kiếp sống hiện tại mà tương lai còn đặng giải thoát luân hồi sanh tử.

 

CHÚ THÍCH :

        BẦN CÙNG SANH ĐẠO TẶC: Người nghèo khổ cùng quẫn thường sanh ra trộm cướp gian lừa.

        BẤT LƯƠNG: Chẳng hiền lành.

        VÔ ĐẠO: Không có đạo đức nhân nghĩa.

        LƯƠNG DÂN: Dân lành, chỉ chung cho dân chúng biết lo làm ăn chơn chất.

        KIỆM TIẾT: Kiệm là bồi chỗ thiếu, tiết là bớt chỗ dư. Đây chỉ cho người ăn xài có chừng mực.

        CƠ HÀN: Đói lạnh (rét). Nghĩa bóng là cảnh nghèo đói khổ sở.

        LƯỚI TRỜI: Luật trừng phạt tự nhiên của tạo hóa (nhân quả). Sách Thánh có câu:

         “Thiên võng khôi khôi phân khúc trực,

        Thần linh hích hích định khuy vinh”.

        (Lưới trời lồng lộng chia ngay vạy,

        Thần linh tỏ xét việc đầy vơi).

        Đức Thầy bảo:

        “Trốn người khỏi trốn trời sao khỏi”.

        LUẬT HÌNH: Cũng gọi là hình luật hay hình pháp. Có nghĩa luật pháp để trừng trị người có tội.

        BÁO ỨNG: Trả lại, làm lành trả lành, làm dữ trả dữ.

        VÔ NGHÌ: Không có tình nghĩa, Đạo nghĩa.

        Hãy tu thân chừa thói vô nghì( ĐT).

        PHI NGHĨA: Chẳng phải nghĩa, chẳng đúng với lẽ phải.

 

 

3.- ÁC TÀ DÂM

 

    CHÁNH VĂN

          TÀ DÂM.- “Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.

          Lần dở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan-diễn khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia-đình đến kẻ xa người lạ; nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-Lộc-Sơn với Dương-Quý-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế ? Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng-bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có.

          Muốn tránh sự bại-hoại nền luân-lý nước nhà, muốn giữ-gìn tiếng tăm của gia-thế, phải đừng để dục-tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau-giồi lòng hiếu- trung, trinh- tiết .(SGTVTB 2004, tr, 189-190).

 

LƯỢC GIẢI :

     1.-ĐỊNH NGHĨA :

        Tà dâm là phá hoại tiết trinh của nữ giới, hoặc thông dâm với vợ con hay chồng của kẻ khác, không phải vợ chồng chánh thức. Đây là ác thứ ba trong Thân Nghiệp.

    2.-  SO SÁNH LÀNH DỮ:

        Đức Thầy bảo:

         “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu,

          Ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”.

        3.- CẢNH TRẠNG TÀ DÂM:

        Từ trào nội Vua quan, trong gia đình quyến thuộc, đến các giới dân chúng, tội ác nầy xưa nay đều có xảy ra. Đức Thầy đã diễn tả:

        “Ác tà dâm thứ năm càng tệ,

          Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần.

          Làm đảo huyền tất cả quốc dân,

          Tôi bất chánh Hoàng cung dâm loạn.

          Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,

          Từ xưa nay trời đất đâu dung.

          Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,

          Quan lấn thế dâm ô dân khó”.

        4.- TAI HẠI:

        a) Kẻ dâm loàn thường gây chiến tranh thù hận, thanh toán lẫn nhau, tiêu tan sự nghiệp. Như vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quí Phi.

        b) Thân xác bệnh tật, trí huệ mờ lu, chết đọa ba đường ác. Như Trung Hoa có vua Trụ, vua Kiệt…Việt Nam có Lê Ngọa Triều…

        5.- GIẢI TRỪ:

        a) Để diệt trừ tệ trạng tà dâm, mỗi người nên làm chủ tâm hồn, đừng để dục tình lôi cuốn.

        b) Noi gương các bậc trung trinh tiết liệt; giữ gìn luân lý, lễ nghi và thuần phong mỹ tục của nước nhà. Đức Thầy thường cảnh giác người đời:

         Trai liều lĩnh điều nầy nên bỏ,

          Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.

        Gái lẳng lơ tiếng quyển lời đờn,

          Hoa có chủ đèo bòng tình mới.

          Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi !

          Bỏ những điều điếm nhục tông môn,

          Đấng nam nhi học lấy điều khôn,

          Lòng trung hiếu gìn theo Đạo lý.

          Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,

          Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền”.

        6.- LỢI ÍCH:

        Người chừa được ác Tà Dâm thì được các điều lợi ích:

        a) Tông môn không bị đời biếm nhẻ, quyến thuộc chẳng bị kẻ khác gạt gẫm dâm loạn.

        b) Thân hình tốt đẹp trang nghiêm và trường thọ.

        c) Trí huệ mau sáng suốt và đoạn lần hột giống sanh tử.

        7.-  KẾT LUẬN:

        Tóm tắt, tà dâm là ác đứng đầu trong các tội ác. Chính nó làm nảy sanh muôn ngàn tội ác khác. Nó cũng là nghiệp nhân ràng buộc con người trong luân hồi sanh tử. Cho nên nhà tu quyết định phải trừ dứt để được tự tại an vui trên đường sang cõi Phật.

 

CHÚ THÍCH :

        THẢM TRẠNG: Tình trạng thê thảm, những sự trạng xảy ra rất đau buồn, thảm thiết.

        VUA TỀ VỚI VỢ THÔI TỬ: Vua Tề tức Tề Trang Công, thời Chiến Quốc (Trung Hoa). Nguyên là Thái Tử Quang. Bấy giờ Thôi Tử làm quan Thượng Khanh cho Vua Tề. Tử có người vợ là Đường Khương, sắc đẹp hơn người. Vua Tề dâm loạn với nàng Đường Khương, nên sau bị Thôi Tử gạt vua vào nhà rồi giết chết.

        AN LỘC SƠN VỚI DƯƠNG QUÍ PHI: Dương Quí Phi sanh đời Đường (Trung Hoa), hiệu là Thái Chân. Nàng có sắc đẹp khuynh thành và trí thông minh, được Thái Tử Long Cơ yêu, cưới về làm vợ. Song Vua cha là Đường Huyền Tông quá say mê sắc đẹp Thái Chân, bèn đoạt lấy phong làm Dương Quí Phi. Còn An Lộc Sơn làm Tiết Độ Sứ cho Vua Đường (gốc là rợ Khiết Đan). Sơn a tùng với Lý Lâm Phủ (tôi gian nịnh) vào làm con nuôi của Quí Phi, để cùng Quí Phi dâm loàn và mưu đồ cướp ngôi nhà Đường. Cuối cùng việc bại lộ, quan quân nhà Đường buộc vua Đường xử Quí Phi phải thắt cổ mà chết để đền tội. Sau cánh quân của An Lộc Sơn bị tan rã và Sơn cũng chết.

        CƯỠNG BỨC: Cũng viết là cường bức. Có nghĩa dùng sức mạnh hoặc quyền thế hiếp dâm người.

        GIAN PHU: Đàn ông trai gái với vợ con người khác.

        DÂM PHỤ: Đàn bà lấy trai hoặc lấy chồng người khác.

        BẠI HOẠI: Hư hỏng tồi tàn.

        GIA THẾ: Thế hệ của một gia đình thân tộc.

        LUÂN LÝ: Những lý lẽ Đạo đức của phận làm người, sự giáo dục con người theo một tập tục tốt lành.

        Rán giữ gìn luân lý tam cang,

          Tròn đức hạnh mới là báu quí”( ĐT).

        DỤC TÌNH: Cũng gọi là tình dục. Có nghĩa sự ham muốn về xác thịt nam nữ gần nhau cho thỏa lòng dâm.

        HIẾU TRUNG: Hai việc then chốt của đạo làm người. Trung thành với Tổ quốc và hiếu thảo với ông bà cha mẹ (xem hai điều 1&2 trong Tứ Ân). Đức Thầy hằng khuyên:

        Hiếu trung lòng chớ vội quên,

           Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên Đài”.

        TRINH TIẾT: Cũng gọi là tiết trinh. Có nghĩa sự trong sạch, trọn tiết, không để thất thân.

        Trai trung liệt đáng trai hiền thảo,

           Gái tiết trinh mới gái Nam Trào”( ĐT).

 

4.- ÁC LƯỠNG THIỆT

 

CHÁNH VĂN

          LƯỠNG THIỆT.- Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt này đã làm duyên-cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi vã, gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn-kết, tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất hoà, hiềm-khích.

          Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành-thật, chánh đáng, được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không còn chịu ác-cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác.

                                          (SGTVTB 2004, tr. 190)

 

LƯỢC GIẢI :

        1.- ĐỊNH NGHĨA:

        Lưỡng thiệt là “hai lưỡi”, lời nói hai chiều, nói đâm thọc cho đôi đàng xích mích thù oán nhau. Lưỡng thiệt cũng gọi là ly gián ngữ. Đây là ác thứ nhứt trong Khẩu Nghiệp.

        2).- NGUYÊN NHÂN:

        Vì muốn bảo thủ lợi danh quyền tước theo ý mình nên họ dùng lời nói đâm thọc thêm bớt cho đôi đàng hiểu lầm nhau. Đức Thầy bảo:

        “Ác nơi khẩu nhứt là lưỡng thiệt,

          Với người nầy dùng lời tha thiết,

          Đến kẻ kia đâm thọc cho gây”.

        3.- SỰ TRẠNG:

        Người hay nói lời lưỡng thiệt, thường xảy ra những cuộc cãi vã, đôi chối, gây thù, trả oán.

        “Xưa Đức Thánh luận bàn cái lưỡi,

          Ngài nói rằng các việc tại mầy.

          Thuận với hòa hay ghét với rầy,

          Cũng cái lưỡi làm thầy các việc”( ĐT).

        4.- TAI HẠI:

        Dùng lời lưỡng thiệt thường gây hậu quả ngờ vực, chia rẽ, phân tranh, mất đoàn kết. Đó là gốc sanh ra bất hòa hiềm khích, giết hại lẫn nhau.

        Người choảng nhau tại mình gia vị,

          Mà cũng không hưởng được lợi danh.

          Sau rõ ra chúng hại ghét ganh,

          Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa( ĐT).

        (Xưa, thời mạt Trụ hưng Châu bên Trung Hoa có Thân Công Báo đi non nầy động nọ, dùng lời lưỡng thiệt, khiến các Địa Tiên nổi nóng xuống trần phạm sát giới; kết cuộc công tu luyện phải thả trôi theo dòng nước. Sau cùng hồn xác Thân Công Báo đều bị sa vào Địa ngục một lượt, tiếng xấu lưu để muôn đời.)

        5.- CÁCH GIẢI TRỪ:

        Muốn diệt trừ ác lưỡng thiệt, nhà tu quyết định không nói hai chiều, đâm thọc, để giữ lời nói mình cho được minh chánh trong sạch. Đức Thầy hằng dạy:

        Khá chừa đi hương đảng bớt rầy,

           Dùng sự thiệt giải bày tâm trí”.

        6.- LỢI ÍCH:

        Người chừa được ác lưỡng thiệt sẽ tránh đặng sự rầy rà xích mích, chính mình không còn bị ác cảm hay kẻ khác khinh miệt và lời mình nói ra được mọi người tin tưởng nghe theo.

        7.- KẾT LUẬN:

        Đại khái ác lưỡng thiệt là một trong Thập ác và đứng đầu Khẩu nghiệp. Xưa, Đức Phật đã bảo:“Khẩu nghiệp đa ư thân ý nhị nghiệp”. Nay Đức Thầy cũng dạy:“Khẩu nghiệp của các trò còn nặng nề hơn hết. Cho nên hành giả cần diệt trừ lưỡng thiệt, để đem lại sự hòa hài cho cả nhân loại và tránh khỏi luân hồi quả báo.

 

CHÚ THÍCH :

        DUYÊN CỚ: Nguồn gốc của sự việc hay lý do đầu tiên.

        ĐOÀN KẾT: Đồng lòng kết hợp thành khối thành nhóm chặt chẽ:“ Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”(Tục ngữ). Đức Thầy từng kêu gọi:

        Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết,

           Phí xác phàm mê mệt đâu nài”.

        HIỀM KHÍCH: Giận thù toan ăn thua, luôn luôn muốn gây chuyện.

        GIẢI TRỪ: Chừa bỏ, dứt hẳn, chẳng còn xảy ra nữa.

        THÀNH THẬT: Thật lòng không dối trá thêm bớt.

        CHÁNH ĐÁNG: Chơn chánh không trái lẽ.

        ÁC CẢM: Cảm tình không tốt.

        HƯƠNG ĐẢNG: Thôn xóm.

        MIỆT KHINH: Cũng gọi là khinh miệt. Có nghĩa khi dể, chê bai ra mặt.

 

 

5.- Ỷ NGÔN

 

CHÁNH VĂN

          Ỷ NGÔN.- Nói đến tội này tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài-xỉ người nghèo, kẻ xảo quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn-ngoan dùng lời nói hạ-nhục người dốt nát.

          Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội-lỗi.  (SGTVTB 2004, tr. 190-191).

 

  LƯỢC GIẢI :

          1.- ĐỊNH NGHĨA:

        Ỷ ngôn cũng gọi là ỷ ngữ, ác thứ nhì trong Khẩu Nghiệp. Có nghĩa là ỷ thị và thêu dệt. Ý nói người cậy vào học thức, khôn lanh, quyền tước, giàu có mà nhiếc xài kẻ dưới tay, kém thế hoặc là dệt thêu xảo quyệt, khiến người hiểu sai sự thật. Hay trau chuốc lời lẽ hát ca tình tứ, làm mờ đục tâm trí kẻ khác.

        2.- NGUYÊN NHÂN:

         Vì bảo thủ cái ta, lúc nào cũng xem ta là trọng, là xứng đáng hơn người, nên sanh ra lời lẽ ỷ ngôn.

        3.- SỰ TRẠNG:

         Người ta thường ỷ vào quyền thế, tiền của, khôn lanh, học thức mà khi thị kẻ thấp kém, ngu dốt một cách thậm tệ. Đức Thầy đã diễn tả:

         “Ác thứ nhì ỷ ngôn chất chứa,

          Đợi cho người lầm lỗi xéo vày.

          Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,

          Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.

          Lắc léo chi có ba tấc lưỡi,

        Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu.

          Nghèo ỷ lanh láo xược lu bù,

          Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt”.

        4.- TAI HẠI:

        – Người phạm ác ỷ ngôn thường bị mọi người căm phẫn, thù hận, bạn thân xa lánh…Vua Tề thời Chiến Quốc ỷ quyền thế khinh khi Trường Vạn, nên bị Vạn đập cho một bàn cờ chết tốt.

        – Qua nhiều kiếp sau còn phải luân hồi trả quả, như xưa có một tiểu tăng trẻ tuổi chê vị sư già tụng Kinh tiếng ồ ề giống tiếng chó sủa, sau bị đọa 500 kiếp làm chó…

        5.- CÁCH GIẢI TRỪ:

        – Muốn diệt trừ ác ỷ ngôn, ta phải tự xét kẻ dưới tay mình cũng có trí nghĩ suy, song tại phước mỏng nghiệp dày, nên họ phải chịu thấp kém hơn mình.

        – Thế nên ta có bổn phận thương yêu, dung thứ họ. Dùng lời ngọt dịu tốt lành chỉ bảo, không nên chê bai thêu dệt mà mang tội lỗi. Đức Thầy khuyên:

        Dùng từ ngôn nói tận đáy lòng,

          Dầu trên dưới cũng không mấy khác.

          Chúng vô phước đời nầy dốt nát,

          Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là.

          Lời trang nghiêm êm ái thốt ra,

          Đừng bao biếm mới là nhơn thiện”.

        6.- LỢI ÍCH:

        – Ai chừa được ác ỷ ngôn không còn bị kẻ khác thù oán, bất mãn.

        – Người trí đều khen ngợi và khỏi quả báo thấp hèn, nhơ xấu.

        7.- KẾT LUẬN:

        Đại để ỷ ngôn là lời nói vô cùng lợi hại. Nhà tu nên cương quyết trừ bỏ cho kỳ được; để khẩu nghiệp sớm thanh tịnh và an vui trên đường giải thoát.

 

CHÚ THÍCH :

        XÀI XỈ: Mắng nhiếc thậm tệ.

        XẢO QUYỆT: Gian xảo dối trá.

        THẤT THIỆT: Không chơn thật.

        HỌC THỨC: Học lực và kiến thức. Chỉ cho người có học và hiểu biết nhiều.

        BẠC PHƯỚC VÔ PHẦN: Phước mỏng nên không có phần cao tốt bằng người.

        LỤY MÌNH: Hạ mình, chịu thấp kém hơn người.

        CAM  NGÔN MỸ TỪ: Lời nói dịu ngọt tốt lành.

        TRANG NGHIÊM: Nghiêm chỉnh, đứng đắn, không vô lễ bỡn cợt.

        BAO BIẾM: Khen và chê. Ý nói khen chê nhạo báng.

 

 

6.- ÁC KHẨU

 

CHÁNH VĂN

          ÁC KHẨU.- Những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi  mắng tục tằn làm ra tội này; con chưởi mẹ mắng cha, không kể luân thường thảo hiếu, mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.

          Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô lỗ, làm cho đời sống được êm-dịu thanh bai hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ-độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu trong nhà, không nên nói những điều ác đức, phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy-dỗ chúng.

                                       (SGTVTB 2004, tr. 191)

 

  LƯỢC GIẢI :

        1.- ĐỊNH NGHĨA:

        Ác khẩu là ác thứ ba trong Khẩu Nghiệp, cũng được gọi là ác ngôn hay ác ngữ. Có nghĩa những tiếng thô lỗ độc ác, tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh.

        2.- NGUYÊN NHÂN:

         Do hoàn cảnh nghịch ý đưa đến liền phát ra những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi mắng, tục tằn, trù rủa hoặc kêu réo Trời Phật, Thần Thánh.

        3.-  SỰ TRẠNG:

        Chưởi mắng cha mẹ, hăm đánh giết mọi người từ gia đình đến xã hội, trù rủa con cháu, xóm chòm, kêu réo khiến sai cả Thần Thánh đủ cõi. Đức Thầy đã diễn tả trạng huống nầy trong một đoạn giảng:

        “Tới ác khẩu thứ ba bày biện,

          Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng.

          Nào chưởi cha mắng mẹ lăng xăng,

          Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu.

          Hăm đánh giết những người hèn yếu,

          Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng.

          Trong gia đình chưởi rủa liên miên,

          Hết dương thế kêu sang Thần Thánh.

          Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,

          Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày”.

        4.- TAI HẠI:

        a) Người phạm ác khẩu tội lỗi ngày càng thêm chồng chập, nghiệp quả báo đền.

        b) Trong nhiều kiếp sau, mắt, tai, miệng, lưỡi bị đui, điếc, câm, ngọng. Nói ra điều gì bị nghiệp báo y như vậy, như trường hợp trong tiền thân Đức Phật có anh chàng buôn ngọc “hăm móc cặp mắt của cô Tiểu thơ”. Tiểu thơ và người đánh xe hăm lại:“Nếu ngươi còn cượng lý sẽ sai lính bắt đánh cho rách da, rồi lấy mủ nấu sôi thoa vào và đem chôn tại ngã ba đường cho người tởn”. Những lời thề thốt hăm he nầy, nhiều kiếp sau ba người đều bị trả báo y như vậy.

        5.- CÁCH GIẢI TRỪ:

        a) Muốn diệt trừ ác khẩu, hành giả hãy bỏ tiếng tục tằn thô lỗ; chỉ nói những lời êm dịu thanh bai, tôn trọng đạo luân thường thảo hiếu:

        “Trọng mẹ cha kính nể Phật Trời,

       Đừng nhiều tiếng nghinh ngang mang lỗi( ĐT).

        b) Đối với mọi người cần giữ lễ độ khiêm cung, kính nể Trời Phật Thánh Thần, không nên kêu réo khiến sai.

        c) Bỏ những lời ác đức, cần nói những lời dịu dàng hiền hậu. Đức Thầy đã hằng khuyên:

        “Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,

          Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.

          Tích thiện thì thường có phước dư,

          Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.

        6.- LỢI ÍCH:

        Người tu chừa đặng ác khẩu được nhiều lợi ích:

        a) Lời mình nói ra được mọi người ưa thích, tin tưởng và vâng nghe.

        b) Không còn quả báo xấu và đến khi thành Đạo, được đầy đủ tiếng Phạm âm của Như Lai. (Phạm âm của Như Lai có 5 đặc tính cao thắng: 1- Tiếng nói ra nghe thâm trầm như tiếng nhạc sấm. 2- Tiếng trong trẻo, nghe rất xa. Ai nghe đến cũng lấy làm vui vẻ sung sướng. 3- Ai nghe đến cũng đầy lòng kính mến, vâng theo. 4- Tiếng thuyết giảng Đạo lý rất gọn ghẽ, dễ nghe, dễ hiểu. 5- Mọi người nghe đều tin cẩn, không chán mỏi.)

        7.- KẾT LUẬN:

        Tóm tắt, ác khẩu là ác thứ ba trong Khẩu nghiệp, nó là một tai hại lớn lao, nhứt là giới nữ dễ vi phạm. Cho nên nhà tu cương quyết trừ bỏ, để tránh khỏi nghiệp báo luân hồi và đặng an vui tự tại trên đường giải thoát.

 

CHÚ THÍCH :                                     

        LUÂN THƯỜNG: Giềng mối và phép tắc chính của mọi người nên noi theo, gồm có Ngũ luân và Ngũ thường.  Ngũ luân là Đạo vua-tôi, Đạo thầy-trò, Đạo cha-con, Đạo chồng-vợ, Đạo huynh-đệ và bè bạn.  Ngũ thường là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đức Thầy thường dạy:

        “Luân thường nặng nợ phải vai mang,

            Nhuần gội thừa ân của Phật đàng”.

        THẢO HIẾU: Cũng gọi là hiếu thảo. Có nghĩa tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ. Đây là đức tánh quan trọng mà bổn phận làm con ai cũng phải có, không thể thiếu được. Đức Thầy luôn nhắc nhở :

        Sách có chữ thâm ân dục báo,

          Phận làm người hiếu thảo noi gương”.

        LONG CUNG: Cảnh và cung điện của Long Vương (Vua Rồng) ở sâu nơi đáy biển. Đó là đền đài do thần lực của Long Vương hóa hiện ra.

        TỤC TẰN: Bẩn thỉu, nhơ nhớp, lời lẽ có tánh cách thô tục, dâm ô, trây trúa.

        THÔ LỖ: Cộc cằn lỗ mãng.

        LỄ ĐỘ: Phép lịch sự, ăn nói xử sự biết kính người trên, nhường kẻ dưới.

        THANH BAI: Trong sạch dịu dàng và lịch sự.

        ĐOAN TRANG: Nghiêm chỉnh, đàng hoàng.

        NGHIÊM CHỈNH: Nghiêm trang tề chỉnh.

 

 

7.- ÁC VỌNG NGỮ

 

CHÁNH VĂN

          VỌNG NGỮ.- Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng-ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chữa, giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị.

          Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân chánh, bỏ lối láo xược trớ-trêu. Chẳng nên tráo-chác với người, bỏ tiếng xảo-ngôn và phải dùng lời chơn-chất.

                             (SGTVTB 2004, tr.191-192)

 

 LƯỢC GIẢI :

        1.- ĐỊNH NGHĨA:

        Vọng ngữ cũng gọi là vọng ngôn – ác thứ tư trong Khẩu Nghiệp. Có nghĩa nói dối, nói huyễn hoặc, có nói không, không nói có.

        Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ,

            Nói với ai chớ có sai lời( ĐT)

        2.- NGUYÊN NHÂN:

        Vì ham muốn danh lợi, quyền tước và nhiều người tin tưởng mà sanh vọng ngữ.

        3.- SỰ TRẠNG:

         Hành trạng của vọng ngữ là có nói không, không nói có, thương ai thì kiếm cách bào chữa, ghét ai thì đặt điều nói xấu, khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn. Đức Thầy đã bảo:

        Ác vọng ngữ thứ tư cũng cấm,

          Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.

          Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,

          Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.

          Đời bất công mấy ai xem sửa,

          Trên điêu ngoa dưới chẳng phục tòng”.

        4.- TAI HẠI:

        – Người còn vọng ngữ thường gây nhân bất công cho nhân loại.

        – Mọi người trong xã hội khinh miệt và nhân cách bị giảm hạ, khi chết đọa vào địa ngục.

        5.- CÁCH GIẢI TRỪ:

        Để diệt trừ ác vọng ngữ, nhà tu nên tập lời nói cho được chân chánh ngay thẳng. Bỏ lối láo xược trớ trêu, xảo ngôn tráo chác; nên nói toàn lời chơn thật ngay chánh. Đức Thầy hằng khuyên nhủ:

        “Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,

            Mà ăn ở nói năng chơn chất”. Và:

        “Người dương thế chẳng ưa bốc xước,

           Phật Thần nào gần kẻ xảo ngôn.

           Đã tu hành đừng có bôn chôn,

           Tưởng hay giỏi khoe khoang tài cán.

           Người hiểu rành mới càng thêm chán,

          Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu.

           Nói với ai cũng phải lựa điều,

           Đừng tráo chác cho người khinh dể”.

        6.- LỢI ÍCH:

        – Người chừa được ác vọng ngữ, sẽ đặng mọi người trọn tin và kính phục.

        – Khẩu nghiệp sớm thanh tịnh và còn an ủi người bớt đau khổ.

        – Phá tan được tà thuyết và khi thành Đạo sẽ đắc chơn thật ngữ của Như Lai.

        7.- KẾT LUẬN:

        Nói tóm lại Vọng ngữ là một trong Thập ác, cũng là một trong Ngũ giới cấm, là một tội ác lớn lao. Cho nên nhà tu quyết định trừ bỏ cho kỳ được, để khẩu nghiệp thanh tịnh và tiến thẳng đến nơi an vui giác ngạn.

 

CHÚ THÍCH :

        THÊM THỪA: Nói dư, nói nhiều hơn, quá với sự thật.

        HUYỄN HOẶC: Dối trá, nói không thật, làm cho người khác hiểu lầm.

        Miệng dương thế hay bày nói huyễn,

          Sách thánh hiền ghét kẻ nhiều lời”( ĐT).

        BÀO CHỮA: Biện hộ, tìm cách bênh vực che chở cho ta và người thân của ta.

        TỰ ĐẮC: Tự cho mình hay giỏi hơn người.

        XẢO TRÁ: Giả dối không thật.

        ĐIÊU NGOA: Xảo trá, giả dối, lừa đảo. Chỉ cho người già miệng, hay đặt điều nói dối làm sai hẳn sự thật.

        KHINH KHI: Khi dể, coi không ra gì.

        MIỆT THỊ: Xài xể, nói nặng, khi dể.

        TƯ CÁCH: Cử chỉ dáng dấp, cách ăn ở đời hoặc là tài năng và trình độ. Ví dụ: Tư cách đứng đắn hoặc tư cách chẳng ra gì.

        NHÂN QUẦN: Đoàn người hợp lại.

        GIẢM HẠ: Bớt thấp xuống, mất giá trị.

        CHÂN CHÁNH: Cũng viết là chân chính. Có nghĩa ngay thẳng thật tình, không giả dối gạt gẫm.

        TRÁO CHÁC: Lừa dối khéo nói láo.

        CHƠN CHẤT: Cũng gọi là chân chất. Có nghĩa lời nói thật thà.

 

 

8- ÁC THAM LAM

 

CHÁNH VĂN

          THAM LAM.- Tánh tham lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết người … tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế … Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác-liệt, gây nên những thảm họa tày trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối-lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận…. Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung-hăng bạo-ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch-Sùng  Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru ? Thế nên, hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị-kỷ tham-lam, lo vun-trồng phước đức, bố-thí cho kẻ nghèo hèn, rán công- phu sám-hối để có thể yên vui nơi miền Cực-Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này.

                                            (SGTVTB 2004, tr. 192-193)

 

LƯỢC GIẢI :

        1.-ĐỊNH NGHĨA:

        THAM LAM là ác thứ nhứt trong Ý Nghiệp, chỉ lòng ham muốn quá độ. Nó là một trong Tam độc: Tham, Sân, Si. Đức Thầy bảo:

                “Biết sao đầy được túi tham,

          Không ngăn không đáy càng làm không kiêng”.

        2.- NGUYÊN NHÂN:

        –  Do tâm vị kỷ, muốn thỏa mãn nhu cầu mọi thứ cho bản thân mà sanh ra ác Tham Lam.

        – Vì lòng ham muốn quá độ, không biết tri túc thường lạc. Chính nó là hột giống, là nguyên nhân làm cho chúng sanh luân hồi trong 6 nẻo, từ vô thỉ tới nay chưa thoát ly ra được.

        3.- SỰ TRẠNG:

        Người có lòng tham lam, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt danh lợi, sắc tình, quyền thế về cho mình. Đức Thầy đã diễn tả sự trạng ấy:

        “Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,

          Muốn bao gồm của thế một mình.

          Tham nhà cao cửa rộng thân vinh,

          Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.

          Thấy của người thèm khô nước miếng,

          Tính làm sao lường gạt lấy đi.

          Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,

          Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa”.

        4.-TAI HẠI :

        a) Kẻ bị lòng tham sai khiến, thường gây ra biết bao thảm khổ cho mình và mọi người: chiến tranh, cướp trộm, giết người, tương tàn tương sát. Ôm mối hận thù, bực tức dẫn đến liều mình tự sát.

        b) Hột giống oan oan tương báo, kéo dài từ kiếp nầy sang kiếp khác rồi kiếp khác nữa. Đức Thầy đã diễn tả tai hại của lòng tham:

        Tham của tạm làm điều tàn nhẫn.

          Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.

          Tham tiền tài thường vướng nạn eo.

          Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.

        5.- GIẢI TRỪ:

        Nhà tu muốn diệt trừ lòng tham lam ích kỷ cần thi hành các phương cách như sau:

        a) An nhẫn trong sự nghèo túng, biết “tri túc thường lạc” để giữ lòng trong sạch và vun trồng cội phước.

        Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,

           Lo vun trồng cội phước về sau( ĐT).

        b.- Mở lòng thương yêu mọi người, mọi giới như mình thương mình, tùy phương tiện mà bố thí cho họ từ vật chất lẫn tinh thần. Đức Thầy dạy:

        Muốn trừ tham phải liệu cách nào ?

           Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.

        c) Dùng tâm chánh niệm quán xét vạn vật trong thế gian, đến thân xác của ta cũng đều là vô thường, vô ngã, chẳng có vật chi để lòng mến tiếc:

          Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

           Vật ở trần như bọt nước làn mây.

           Thân ta còn rày đó mai đây,

           Của ấy cũng khi tan khi hiệp( ĐT).

        6.- LỢI ÍCH:

        Hành giả khi diệt trừ được lòng tham lam ích kỷ, tất tiêu diệt hột giống tội lỗi và khổ đau sanh tử. Phước đức càng lúc càng gia tăng và tâm hồn được tự tại an vui trên đường giải thoát.

        7.- KẾT LUẬN:

        Đã biết lòng tham là nguyên nhân của mọi sự đau khổ và sanh tử luân hồi, nhà tu muốn diệt trừ nó phải biết sám hối tội căn và “tri túc thường lạc”. Từ bi bố thí và quán xét lý vô thường vô ngã, tất đặng thành công viên mãn, đạt quả Cực lạc hoặc Niết bàn.

 

CHÚ THÍCH :

        THẢM KHỔ: Thê thảm và khổ sở đau đớn.

        Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,

          Sao dân còn tríu mến trần mê.( ĐT) .

        ÁC LIỆT: Dữ dội, kịch liệt.

        THẢM HỌA: Tai họa ghê gớm.

        HỐI LỘ: Ăn của lo lót.

        ĐIÊU LINH: Long đong khổ sở, vất vả.

        THỰC HIỆN: Làm cho thành ra sự thật.

        QUYÊN SINH: Liều bỏ kiếp sống (tự tử).  NỒI DA XÁO THỊT: Lấy vỏ rùa làm chảo xào thịt rùa. Ý chỉ thân bằng ruột thịt hoặc đồng bào nỡ tranh giành hoặc giết hại lẫn nhau.

        THẠCH SÙNG VƯƠNG KHẢI: Hai người đồng sanh vào trào nhà Tấn thời Đông Châu bên Trung Hoa. Sùng trước làm quan Thứ sử, tánh tham lam xảo trá, thâu góp của dân, hối lộ thượng cấp, sau thăng chức Thái bộc giàu to. Còn Vương Khải là em của hoàng hậu, cũng là tay cự phú. Cả hai đều lấy sự xa xí khoe của để tranh hơn thua, không làm được việc gì ích nước lợi dân, ai khuyên can cũng chẳng nghe. Cuối cùng hai người chết chẳng mang theo được gì, lại còn để tiếng đời biếm nhẽ, sách sử chê bai. Đức Thầy có cảnh tỉnh:

                Lòng nhơn xin khá tập rèn,

           Thạch Sùng Vương Khải sách đèn ai ưa”.

        VỊ KỶ: Vì mình, chỉ biết lợi cho mình, chớ không nghĩ đến người khác.

        CÔNG PHU: Sức dùng để làm việc, người chịu nhọc để làm việc. Ví dụ: Công phu hành đạo.

        SÁM HỐI: (Xem chữ Ăn năn, tr.52 trong Quyển nầy).

        CỰC LẠC: Rất vui, tột vui. Cũng gọi là An Dưỡng Quốc hay Tịnh độ. Cõi nầy do nguyện lực và công đức của Phật A Di Đà tạo nên và chính Ngài là Giáo chủ. Cõi Cực lạc hoàn toàn an vui trong sạch, không có những nỗi khổ đau, trần trược như cõi Ta bà.

        Ai tu hành dứt lòng tham luyến cõi Ta bà và chuyên tâm niệm Phật, làm lành gồm đủ: tín, nguyện, hành thì khi lâm chung được vãng sanh về Cực Lạc. Đức Thầy khuyên:

        Trông chúng sanh nghĩ tận đuôi đầu,

           Về Cực Lạc mới là hết khổ”.

 

 

9- ÁC SÂN NỘ

 

CHÁNH VĂN

          SÂN NỘ.- Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém giết oán thù nhau. Kẻ thắng kiêu-hãnh, người bại hổ-ngươi nên sự hiềm-thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công bình, lẽ phải trái.

          Diệt được nó tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở rộng lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn-nhịn và chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm khích.

                                                (SGTVTB 2004, tr. 193)

 

LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        SÂN NỘ : Ác thứ nhì trong Ý Nghiệp, cũng gọi là sân hận hay hận sân hoặc sân nhuế. Có nghĩa nóng giận, hờn ghét, thù hận, Đức Thầy khuyên:

        “Chữ gây gổ là sân hãy diệt,

           Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng”.

        2.-  NGUYÊN NHÂN:

         Sở dĩ có sân nộ là do bị người khinh rẻ, húng hiếp, đàn áp mình; hoặc phạm lỗi hay làm hư hao tài vật của mình.

        3.-  CẢNH TRẠNG:

         Khi tánh nóng giận nổi lên thì người ta làm những chuyện bất công sái phép, chém giết, đánh chửi, la ó; đập phá đồ đạc, tức bực khó chịu, oán thù càng lan rộng. Kinh xưa đã bảo:“Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”(Một đốm lửa sân hận nổi lên thì trăm cửa nghiệp chướng đều mở rộng). Đức Thầy đã diễn tả cảnh ấy:

         “Ác thứ chín Hận Sân luận tiếp,

        Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.

          Nổi lôi đình đâu có định chừng,

          Cho ta biết mà toan giữ trước.

          Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,

          Nên loài người ở cõi thế gian.

          Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,

          Mới có cuộc tranh tài đấu lực”.

        4.- TAI HẠI:

         Người nóng giận cực độ sẽ cuồng loạn tâm trí, không làm chủ được thâm tâm, con người trở nên hung bạo, chẳng còn nghĩ đến sự công bình phải trái. Đức Thầy đã bảo:

         “Hơn tự đắc khoe khoang dõng sức,

          Phải bị người hềm khích ghét ganh.

          Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,

          Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.

          Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,

          Tỷ như con cọp dữ trên rừng.

          Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,

          Phân từng mảnh mới là thỏa dạ”.

        5.- GIẢI TRỪ:

        Để giải trừ tánh sân hận, nhà tu phải dùng trí huệ mà quán xét mọi sự trạng xảy ra, rồi áp dụng ba phương cách như  sau:

        a) Mở lòng khoan dung cho những người lầm lỗi “..hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận( ĐT)

        b) Nhẫn nhịn những kẻ muốn hơn hoặc hiếp đáp chưởi mắng mình.

        “Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,

          Đợi cho người hết giận ta khuyên.

          Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,

          Thì đâu có mang câu thù oán.( ĐT).

        c) Lấy lòng tử bi bình đẳng đối xử với mọi người và sanh vật. Đức Thầy thường răn dạy:

         “Diệt được nó tâm trần thong thả,

          Ta thường nên tập tánh khoan dung.

          Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,

          Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.

          Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,

          Khỏi mất lòng tất cả mọi người.

          Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,

          Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.

          Nay ta đã qui y cầu Đạo,

          Gây gổ là trái thuyết từ bi”.

        Hoặc là:

         “Việc hung ác hễ vừa thấp thoáng,

          Chữ từ bi ta diệt nó liền.

          Sự oán thù đáp lại chữ hiền,

          Thì thù oán tiêu tan mất hết”.

        Ba phương cách nói trên ví như cây “quạt Ba Tiêu”, có diệu năng quạt tắt Hỏa Diệm Sơn:

        Chúng sanh nên tìm quạt Ba Tiêu,

          Chữa Hỏa Diệm nơi tâm cho tắt”.( ĐT)

        Xưa thầy trò Tam Tạng đi Tây Phương thỉnh Kinh, giữa đường bị hòn “Hỏa Diệm Sơn” cản đường. Nhờ Tôn Ngộ Không (tượng trưng cho trí huệ) tìm ra quạt Ba Tiêu, quạt tắt núi lửa, Thầy trò mới đạt được mục đích thỉnh đặng Tam Tạng Kinh. Nhà tu diệt được ác sân nộ, cũng được chứng quả như thế.

        6.-  LỢI ÍCH:

        – Khi diệt trừ được tánh nóng giận, hành giả không còn bị người hiềm khích thù hận.

        – Tâm trí được thảnh thơi sáng suốt, công đức chẳng hao mòn và không hề mê tín theo tà đạo.

        –  Đời sống luôn gặp chánh Đạo, trí huệ sớm phát khai và đắc thành Đạo quả.

        7.-  KẾT LUẬN:

        Đại khái lòng sân hận là một trong ngũ độn sử (Năm món phiền não ngu độn căn bản). Nó nảy sanh muôn ngàn phiền não khác. Và cũng là một trong tam độc (tham, sân, si). Chúng sanh vì nó mà phải chịu đọa trong Tam đồ Lục đạo. Cho nên nhà tu quyết định phải trừ dứt để lòng được thanh tịnh, an vui trên đường tiến sang bờ giác.

 

CHÚ THÍCH :

        CUỒNG TRÍ: Mất trí, không còn biết phải quấy.

        KHOAN HỒNG: Đại lượng rộng rãi hay tha thứ kẻ lầm lỗi.

        NHẪN NHỊN: Nhịn thua dằn lòng xuống để cho kẻ khác hơn mình. Xưa, Nhẫn Nhục Tiên nhờ nhẫn nhịn vua Ca Lợi Vương mà cảm hóa được nhà vua và cả thần dân trong nước hồi tâm hướng thiện. Cho nên Đức Thầy hằng khuyên:

        Phải nhẫn nhục chờ người cổ tích,

          Phật với Trời phân định cho ta”.

 

10.- ÁC MÊ SI

 

CHÁNH VĂN

          MÊ SI.- Tội ác này do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy, con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân-lý, suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê man theo những vật nhỏ nhen, mau tan mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải thoát.

          Hãy xoá bỏ các điều mê-tín, qui-thuận theo tinh thần đạo-đức, lánh chốn mê-lầm tỉnh cơn mộng-huyễn, phá tan màn vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh.

                                                  (SGTVTB 2004, tr. 193)

 

LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        Mê si cũng gọi là vô minh – ác thứ ba trong Ý Nghiệp. Có nghĩa lòng mê mờ không nhận rõ lý sự, khởi lên vọng-hoặc điên-đảo (tà kiến), khiến người lầm lũi trong tội lỗi, như người đi đêm không có đèn đuốc nên phải lạc vào hầm hố. Mê si là đối tượng của trí huệ.

        2.- NGUYÊN NHÂN:

        Xưa Đức Phật bảo rằng:“Tâm trí mê muội tội lỗi chập chồng, không biết đường giải thoát. Đó là nguyên nhân của sanh tử luân hồi, không bao giờ dứt”.

        Đức Thầy nay cho biết:“Tội ác nầy do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự suy nghĩ mà ra”. Ngài cũng đã nói:

        Ác thứ mười đoạn chót mê si,

          Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.

          Màn vô minh che mờ căn trí,

          Nên thường khi nhận ngụy làm chơn”.

        3.-CẢNH TRẠNG:

        Người còn mê si không phân biệt được lẽ phải trái, nên hay bảo thủ những thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân lý. Họ chỉ biết:

        “Lo huyễn thân vật chất kém hơn,

          Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức.( ĐT)

        4.- TAI HẠI:

        a) Người còn mê si suốt đời ngu muội, chỉ biết đua đòi theo vật chất nhỏ nhen, mau tan mau rã.

        b) Tin bướng nghe càn, không tìm hiểu chơn lý và con đường giải thoát; khiến cho màn vô minh càng lúc càng dầy, lưới nghi ngờ càng thêm bao phủ. Đức Thầy đã chỉ rõ:

        “Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức,

          Bịn rịn đời cực khổ tang thương.

          Khi nói làm ít chịu suy lường,

          Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác”.

        5.-  CÁCH GIẢI TRỪ:

        Để giải trừ ác mê si, hành giả phải thi hành các phương cách:

        a) Nương theo tinh thần đạo đức, giác ngộ và tu tập trí huệ. Vì mê si như đêm tối, trí huệ như ngọn đèn. Có đèn thì bóng tối tiêu tan, nên khi có trí huệ thì vô minh (mê si) dục vọng chẳng còn, thấu đạt chơn lý. Đức Thầy dạy:

        Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,

           Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.

        b) Dùng trí huệ xóa bỏ những mê tín dị đoan, mê lầm mộng ảo, phá tan lòng nghi ngờ giải đãi. Nhứt tâm tinh tấn theo con đường giác ngộ để tiến tới Niết Bàn.

        Lúc Đức Thầy mới khai đạo, ông Đặng Thành Tựu có đến Tổ Đình hỏi Ngài:

        -Bạch Thầy, con muốn trừ diệt mê si phải làm sao?          Đức Thầy đáp:

        – Muốn diệt mê si, tâm mình phải giác.(Xem thêm quyển Chuyện Bên Thầy II, có giải câu chuyện đầy đủ.)

        Sau nầy trong KHUYẾN THIỆN, Quyển 5, Đức Thầy có dạy rõ:

        “Diệt mê si phải nương thuyền giác,

          Muôn việc làm chánh trực khôn ngoan.

          Đừng bạ đâu tin bướng nghe càng,

          Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp”.

        6.- LỢI ÍCH:

        a)  Nhà tu khi trừ được mê si, tức trí huệ sáng mầu.

        b) Nhận được đâu là mê tín, ngụy tà để tránh và đâu là chánh tín, chơn thật nên theo.

        c) Tâm ý luôn thuần thiện, trên đường độ đời, giác chúng đều đầy đủ nhân duyên và thường gặp bạn Thiện tri thức.

        7.- KẾT LUẬN:

        Tóm lại, mê si là một trong 10 món phiền não căn bản. Chính nó sanh ra 8 vạn 4 ngàn trần lao phiền não và nghiệp nhân luân hồi sanh tử. Dù cho các bực Tiên gia, có ngũ thông mà chưa trừ dứt mê si cũng phải huờn tục, như Thiên Bồng Nguyên Soái bị đọa làm Trư Bát Giái. (Bát Giái, dụ cho tâm mê si: Mê ăn, mê ngủ, mê sắc dục. Tam Tạng nhờ có Tề Thiên, dụ cho Trí huệ, mới thâu phục được Bát Giái cải tà qui chánh cùng đi thỉnh Kinh Tây phương. Sau Thầy trò mới thành chánh quả.) Cho nên, nhà tu muốn trừ nghiệp nợ luân hồi sanh tử, tức 10 điều ác mà gốc  nó chính là mê si, tất phải dùng trí giác ngộ soi tan bóng tối (mê si). Như Đức Thầy đã dạy:“Muốn diệt mê si tâm mình phải giác, tất nhiên hành giả sẽ được tự tại mà tiến đến nơi bất diệt bất sanh (Niết Bàn). 

        Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh.( ĐT).

 

TỔNG LUẬN :

        Căn cứ theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta đã nghiên cứu và tu học qua loạt bài Tứ Ân và Tam nghiệp thập ác là hết phần “Tu Nhân”. Tuy Đức Giáo Chủ giảng Tứ Ân trước Tam nghiệp thập ác, nhưng đến đoạn chuyển đề, Ngài lại dạy tránh Tam Nghiệp, chừa Thập ác trước khi đáp “Tứ Ân”. Bởi Tam Nghiệp và Thập Ác là hột giống sanh tử, là nghiệp nợ luân hồi, nên cần diệt trừ trước. Còn đáp Tứ Ân là tạo vô lượng phước đức, để làm phương tiện tiến đến bờ giải thoát.

        Tam Nghiệp, Thập Ác có thể ví như những cây cỏ dại. Còn Tứ Ân ví như các giống lúa. Nhà nông muốn lúa trúng mùa, trước phải nhổ sạch cỏ rồi mới gieo lúa. Song đó mới là nấc thang đầu (Tu Nhân) là nền tảng vậy thôi. Cho nên người tín đồ PGHH cần phải tiến lên giai đoạn học Phật và tu Phật nữa mới ra khỏi sanh tử và chứng quả Bồ đề. Vẫn biết hột giống Bồ đề đã có sẵn trong ruộng tâm của mỗi người, song phải nhờ nguồn mưa pháp rưới vào nó mới nảy mầm đâm tược.

        “Suối Tiên Thanh* đổ ra cuồn cuộn,

          Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên.( ĐT)

                *(Có bản chép là Suối Tiên Thánh)

        Bấy giờ hành giả phải ra công vun tưới và kiên trì, bắt sâu sửa nhánh (dẹp sạch vô minh phiền não) thì quả giác ngộ mới đạt thành.

        “Phật Đạo trau giồi tâm tánh lại,

           Giác thuyền chuyên chở lúc can qua”.( ĐT).

        Cho nên, tới đây Đức Thầy dạy chúng ta tu học “Bát Chánh Đạo và niệm Phật”.

LUẬN VỀ BÁT CHÁNH ĐẠO

(SGTVTB 2004, tr. 194- 200)

 CHÁNH VĂN

          Trừ xong ba nghiệp-chướng, hãy làm theo tám điều chánh, và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo-hạnh. Nhưng sự tấn-bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục-đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát-Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê-đồ, tấn- triển trên đường Giải-Thoát.

Bát Chánh gồm có :

1.- Chánh kiến 

2.- Chánh tư duy 

3.- Chánh nghiệp 

4.- Chánh tinh tấn

5.- Chánh mạng 

6.- Chánh ngữ

7.- Chánh niệm 

8.- Chánh định.

       

LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

         Luận về tám điều chánh, tức là “Bát Chánh Đạo”. Có nghĩa: Tám nẻo ra, là tám con đường đưa người ra khỏi luân hồi sanh tử, đạt đến Thánh quả A La Hán và Bồ Tát, chứng đắc Niết Bàn. Bát Chánh là một trong “Tứ Diệu Đề” có năng lực điều trị bát tà. Đức Thầy đã dạy:

        “Diệu thâm Bát Chánh lời truyền giáo,

          Xa thẳm Tứ Đề tiếng giục ông”.

        2.-  NGUỒN GỐC:

        Về nguồn gốc Bát Chánh Đạo, Đức Thầy luôn cho biết:

         Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,

          Non tuyết rèn ra Bát Chánh kìa.

          Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,

          Hoàn cầu bốn biển khắc danh bia.”

          Hoặc là:

          “Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,

          Là chơn truyền của Phật Thích Ca”.

        Vì muốn chúng sanh giải thoát khổ đau sanh tử, Đức Phật thuyết ra “Bát Chánh Đạo”. Pháp nầy giản dị và thích trung với mức sống tinh thần, thể xác cho các giới tu hành.

        Mục đích là cải thiện tư tưởng, hành động, ngôn ngữ con người trở thành chí chơn, chí mỹ để giải thoát khổ đau sanh tử. Xưa, sau khi đắc Đạo, Phật đến “Khổ Hạnh Lâm”(Rừng Lộc-giả) thuyết pháp Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo cho năm anh em Kiều Trần Như nghe; nghe xong năm vị nầy đều chứng quả A La Hán.

        3.- HIỆN TẠI:

        Ngày nay, Đức Thầy bảo:“Diệt được 10 điều ác tự nhiên 10 điều lành hiện ra”. Song chưa đạt được mục đích của người tu. Vì thế, cần hành luôn Bát Chánh Đạo. Vậy ai muốn giải thoát mê đồ, sanh tử thì hằng ngày phải đọc tụng và trì hành Bát Chánh Đạo sẽ được kết quả như ý.

        4.- BÁT CHÁNH gồm có:

        Tư tưởng:   {   1.- Chánh kiến.

                         {   2.- Chánh tư duy.

        Hành động {   3.- Chánh nghiệp.

        Tư tưởng    {   4.- Chánh tinh tần.

                         {   5.- Chánh mạng.

        Ngôn ngữ   {   6.- Chánh ngữ.

        Tư tưởng    {   7.- Chánh niệm.

                         {   8.- Chánh định.

 

CHÚ THÍCH :

        NGHIỆP CHƯÓNG: (Xem phần mở đầu bài Luận về Tam nghiệp, tr. 45)

        MƯỜI ĐIỀU LÀNH: Do chữ “Thập Thiện Nghiệp” gồm có:

        1- Không Sát sanh, lòng luôn thương người mến vật.

        2- Không đạo tặc, thường làm việc nghĩa giúp đời.

        3- Không tà dâm, tâm hạnh thường trong sạch, lễ độ và tôn trọng luân thường đạo lý.

        4- Không lưỡng thiệt, luôn nói lời thành thật chánh đáng.

        5- Không ỷ ngôn, thường nói lời tốt lành êm dịu.

        6- Không ác khẩu, nói toàn lời thanh bai hiền đức.

        7- Không vọng ngữ, hằng nói lời chơn chánh đúng với sự thật.

        8- Không tham lam ích kỷ, luôn có lòng bố thí vị tha.

        9- Không sân hận tật đố, tâm hằng hoan hỉ, từ bi, nhẫn nhục và khoan dung.

         10- Không mê si tà kiến, luôn phát sanh trí huệ và chánh kiến. Đức Thầy bảo:

        “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,

          Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.

        MỤC ĐÍCH: Cái mục tiêu để nhắm và tiến tới.

        KINH NHỰT TỤNG: Quyển Kinh để cho môn đồ đọc tụng, truy cứu và trì hành hằng ngày.

        MÊ ĐỒ: Đường mê, đường tối tăm tội ác và khổ não. Đối với giác lộ: đường về cảnh Phật sáng suốt và giải thoát an vui. Đức Thầy có câu:“Thoát mê đồ thường phóng quang minh”.

        TẤN TRIỂN: Tấn tới mau chóng và mạnh mẽ.

        GIẢI THOÁT: (Xem Ân Tam Bảo, tr. 34).

 

 

1.- CHÁNH KIẾN

 CHÁNH VĂN

          CHÁNH-KIẾN.- Chánh: đúng sự thật, Kiến: thấy, xem xét. Chánh-kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.

          Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai chạy ít nhiều sự-thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình chánh đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự rắc-rối, cẩn-thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng, công-bình.

          Chẳng thế, nó còn giúp ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.

                                 

LƯỢC GIẢI

          1.- ĐỊNH NGHĨA:

        – Chánh Kiến: Chánh là đúng sự thật; Kiến là thấy, xem xét. Chánh Kiến là dòm thấy xem xét đúng sự thật (ở đây phải thấy cả mắt lẫn tâm, chớ chẳng phải thấy bằng mắt suông).

        – Tà Kiến là thấy biết, nhận xét lầm lạc tà vạy.

        2.- NGUYÊN NHÂN SANH TÀ KIẾN:

        Mỗi chúng sanh vì bị bản ngã lôi cuốn, làm mờ ám tâm trí, nên sự thấy biết, nhận xét lầm lạc ngược lại Chánh kiến.

        3.- HÀNH TRẠNG TÀ KIẾN:

        – Bởi thiếu sáng suốt nên hành giả thấy biết và xét đoán mọi việc theo tư thù, hay lợi kỷ…

        – Do đó mà phân định mọi vấn đề: từ hành động, ngôn ngữ và vạn vật bên ngoài đến bên trong của tâm ý đều chẳng đúng chơn lý. Như năm người mù rờ một con voi…Sau khi rờ xong, mỗi người đều tả được một bộ phận con voi theo nhận xét của mình (biên kiến); chớ không tả được toàn diện con voi. Chỉ người sáng mắt (có chánh trí và chánh kiến) mới thấy toàn diện của nó…

        4.- TAI HẠI:

        – Bởi thiếu chánh kiến, nên nhà tu thường “nhận ngụy làm chơn” phân xét mọi việc đều sai chơn lý hoặc thấy một bên, hoặc nhận thấy ngược lại (biên kiến và tà kiến).

        – Vì thế, mà sự phán đoán không công bình, chánh đáng, làm bao nhiêu kẻ khác chịu oan tình. Xưa, có Trí Huyền Ngộ Đạt, tiền kiếp của ông là một viên án xử oan Triệu Thố…Nghiệp oan đó trải 10 kiếp sau, vẫn còn bị trả quả…

        5.- HÀNH CHÁNH KIẾN:

        Muốn hành trì Chánh kiến hành giả phải đem hết trí năng truy cứu mọi vấn đề, để:

        -Dẹp tan bản ngã bằng cách quán lý vô thường, vô ngã.

        -Cẩn thận, quán xét tận tường các việc, từ việc làm, lời nói và ý nghĩ cho đến chỗ cực điểm, đúng với chơn lý. Đức Thầy từng dạy:

                “Đạo mầu Bát Chánh rán ghi,

           Thứ nhứt Chánh Kiến việc chi xem nhìn.

                   Luận bàn chơn lý cho minh.

           Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.

        Hoặc là:

        “…Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,

          Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà.

          Dầu việc người hay việc của ta,

          Nên phán đoán cho tường cho tận.

          Tội với phước xét coi nhiều bận,

           Mới khỏi lầm tà kiến đem vào”.       

        6.-  LỢI ÍCH:

        Khi hành giả tu rèn được Chánh kiến, sẽ đặng kết quả:

        a) Tránh được tà kiến và diệt trừ đặng bản ngã.

        b) Hiểu rõ ràng các việc chân giả, không hề lầm lạc và phán đoán mọi việc được chí công, bình đẳng.

        c) Không còn say mê tục lụy, thấu đạt lý nhiệm mầu của đạo pháp.

        d) Đoạn trừ được “kiến hoặc”(Kiến hoặc là thấy hiểu sai lầm) tức là Ngũ lợi sử (năm món phiền não lanh lợi: 1- Thân kiến: Chấp thân ngũ uẩn thật có và của ta vĩnh cửu. 2- Biên kiến: thấy một bên. 3- Tà kiến: thấy ngược lại chánh kiến. 4- Kiến thủ: bảo thủ ý kiến của mình là đúng hơn hết. 5- Giới cấm thủ kiến: Chấp giữ những giới lặt vặt mà các giới chánh lại không gìn giữ.)

        7.- KẾT LUẬN:

        Tóm lại, người hành được Chánh kiến, không còn kiến thức sai lầm, thường được tâm vô úy tự tại và tiến hành phương pháp lợi lạc cho các tầng lớp chúng sanh, thẳng đến khi thành Đạo Bồ đề.

 

CHÚ THÍCH :

        BẢN NGÃ: Cái ta, chấp cái ta là trên hết, đáng yêu đáng quí hơn hết.

        TƯ THÙ: Mối thù hận riêng của cá nhân mình.

        LỢI KỶ: Lợi ích riêng mình.

        TRÍ NĂNG: Năng lực và trí huệ, nó rất mầu diệu sáng suốt.

        TRUY CỨU: Theo dõi để tìm hiểu tận gốc.

        CỰC ĐIỂM: Điểm cao hơn hết, tới chỗ cùng tột.

        TỤC LỤY: Những điều phiền lụy thống khổ trong cõi trần tục:

        Nếu mãi mê mang mùi tục lụy,

          Linh hồn chìm đắm chốn nê hà”.( ĐT)

        HỒNG TRẦN: Bụi đỏ. Ý chỉ cõi đời đầy bụi bặm, nhớp nhơ đau khổ:“Hồng trần biển khổ thấy rồi”.( ĐT)

 2.- CHÁNH TƯ DUY

 CHÁNH VĂN

          CHÁNH TƯ-DUY.- Tư tưởng chơn-chánh.

          Sanh ra ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng…; cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quây cuồng vào những sự ấy, không thể nào thoát-ly ra được. Ấy về phần tà.

          Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời-Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm luân oan-nghiệt. Hãy tin tưởng Phật-Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phuớc lành cho nhân chủng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu-tỉnh.

 

   LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        CHÁNH TƯ DUY: Tư tưởng chơn chánh trong sạch tốt lành.

        TÀ TƯ DUY: Tư tưởng tà vạy xấu ác.

        2.-  NGUYÊN NHÂN SANH TÀ TƯ DUY:

        Bởi không làm chủ được tâm hồn, nên thường bị thị dục cám dỗ, sai khiến.

        3.-  HÀNH TRẠNG:

        Vì tâm trí mãi mơ tưởng theo danh lợi, quyền tước, tình yêu, màu sắc,v.v…và đam mê “Đeo tuồng mộng huyễn lập lòe sắc hương.( ĐT)

        4.-  TAI HẠI:

        Do tư tưởng tà vạy, suy nghĩ sai lầm làm mờ đục trí huệ, rồi bị những tư tưởng ấy rù quến tâm trí quay cuồng trong ngũ dục, nên mãi mãi luân hồi sanh tử. Đức Thầy từng cho biết:

                “Gây ra lắm nợ phong trần,

         Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

        5.-  HÀNH CHÁNH TƯ DUY:

        Nhà tu muốn thành đạt Chánh Tư Duy, cần thi hành những điểm như sau:

        a) Dù sống trong hoàn cảnh nào, hay làm việc gì cũng phải giữ cho tâm tánh luôn được bình tịnh (yên lặng và trong sạch sáng suốt).

        b) Giữ tư tưởng cho thanh cao. Nghĩa là tập trung và thay đổi tư tưởng. Đức Thầy đã dạy:“Việc đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư tưởng, tìm cách đánh đổ tư tưởng xấu xa, đem thay vào những tư tưởng ôn hòa Đạo đức”.

        c) Trí rán tầm chơn lý, tức là cái Đạo, gồm có ba phần:“…là cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình…”

        d) “Sống lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh”. Đức Thầy bảo:

         “Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ.

          Trên cùng dưới dù thầy hay tớ,

          Cũng tưởng điều trung chánh mới mầu.

          Việc vui say mèo mả đâu đâu,

          Hãy dẹp gát nhớ câu Lục Tự”.

        6.-  LỢI ÍCH:

        Người hành được Chánh Tư Duy sẽ đặng các phần lợi ích đáng kể:

        a) Dứt hết tư-tưởng tà vạy và hoặc-nghiệp phiền não.

        b) Không bị ngũ dục làm điên đảo trí năng.

        c) Trí huệ sáng suốt, như xưa kia cậu bé Sa Di Suy Ca chỉ tu chuyển đổi tư tưởng trong một buổi mai gần đúng ngọ, sạch hết phiền não…Tâm cậu thanh tịnh và chứng quả A La Hán; lúc thầy Xá Lợi Phất đi khất thực về đến, Thầy trò vui vẻ trong buổi ngọ trai chứng Đạo. (Xem thêm câu chuyện “Chuyển đổi tư tưởng” bên quyển Triết Văn chọn lọc.)

        d) Cảm thông mọi thống khổ của mỗi chúng sanh, để tùy phương tiện thích trung mà giáo hóa.

        e) Trừ được “tư hoặc”, tức “ngũ độn sử”. (5 món ngu độn là : tham lam, sân nộ, mê si, ngã mạn cống cao và nghi ngờ do dự).

        7.-  KẾT LUẬN:

        Tóm tắt, khi thực hành được Chánh Tư Duy thì chẳng còn tư tưởng mê mờ, suy nghĩ bất chánh, làm tổn hại cho mình và kẻ khác.

        Tâm trí luôn được bình tịnh sáng mầu và đối với mọi sự vật đều thấu đạt chơn lý, dẫn đến khi thành quả Bồ đề.

 

 CHÚ THÍCH :

          THỊ DỤC: Các sự ham muốn.

        CÁM DỔ: Rù quến, quyến rũ làm làm cho người say mê theo.

        QUAY CUỒNG: Xoay vòng theo không thoát ra được, cũng chỉ cho sự xoay trở một cách vất vả.

        BÌNH TỊNH: Bình là yên lặng, bình đẳng không phân biệt thiên chấp;Tịnh là trong sạch, sáng suốt.

        “Nếu ai mà biết chữ tu trì,

          Tâm bình tịnh được thì phát huệ”.( ĐT)

        CHƠN LÝ: (Xem chữ Chơn lý trong Ân Đồng bào và Nhân loại, tr.40 ).

        ĐẠO: (Xem chữ Đạo đoạn mở đề bài “Luận về Tam nghiệp”, tr.44-45).

        SANH LINH: Sanh mạng, chỉ cho giới hữu tình, tức là loài có mạng sống, có tri giác.

        OAN NGHIỆP: Mầm móng tai hại tự mình gây ra rồi tự hưởng lấy.

        ĐẤNG THIÊNG LIÊNG: Người đáng tin tưởng và sùng kính. Chỉ cho chư vị: Phật, Tiên, Thần, Thánh.

        NHÂN CHỦNG: Giống người, loài người.

        LẠC ĐẠO AN BẦN, XẢ THÂN TU TỈNH: Là an vui trong cảnh sống nghèo (tri túc thường lạc) để dồn hết thân tâm vào việc tu hành Đạo đức. Không ích kỷ, gây tạo vật chất bồi bổ cho giả thân và cũng không tiếc công năng trí lực trong cuộc giúp đỡ quần sanh.

 3.- CHÁNH NGHIỆP

 CHÁNH VĂN

          CHÁNH-NGHIỆP.- Việc làm chánh đáng ngay thẳng.

          Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.

          Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc nầy việc nọ, tóm lại cũng tại vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối song cái chi-phối ấy, khác hẵn với kẻ gian tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo-trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề- nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ, v.v…

          Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang-đàng, trà đình tửu điếm…Họ là đồng-loã mà phạm-nhân là những kẻ nghiện-ngập say sưa.

          Thế nên mục Chánh-nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.

          Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.

 

  LƯỢC GIẢI :

        1.- ĐỊNH NGHĨA:

        – Chánh nghiệp là việc làm chánh đáng ngay thẳng.

        – Tà nghiệp là việc làm tà vạy gian ác.

        2.- NGUYÊN NHÂN:

        a) Các Tăng ni xuất gia nhờ làm nhiều công việc Đạo, nên ít gây ác nghiệp (tà nghiệp).

        b) Nhưng hàng cư sĩ vì phải va chạm với đời và lo cuộc sống còn nên dễ sanh ác nghiệp.

        3.-  HÀNH TRẠNG ÁC NGHIỆP:

        a)Hành động gian ác tổn thương đến quyền lợi, danh dự và mạng sống các loài khác, như: sát sanh, đạo tặc, tà dâm; đầu cơ, cho vay cắt cổ…

        b) Tạo những việc khiến cho kẻ khác đam mê tội lỗi, như: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu…

        4.- TAI HẠI:

        a) Người còn tà nghiệp hiện tại không xứng là một Tăng Ni hay thiện tín, vì bị coi như phạm giới.

        b) Trong tương lai, hột giống Đạo bị lấp vùi, lâu gặp cơ thức tỉnh.

        c) Chết đọa ba đường ác và còn phải luân chuyển báo đền nghiệp quả.

        5.- HÀNH CHÁNH NGHIỆP:

        a) Người tu Chánh nghiệp trước hết phải: giới hạnh tinh nghiêm và chừa bỏ những ác nghiệp vừa kể trên. Đức Thầy dạy:

        “Dầu nghề chi làm việc ngay đường,

          Ta đừng nên theo kẻ bất lương.

          Học ngón xảo để lừa đồng loại”.

        b) Làm những điều chơn chánh hiền từ.

        c) Tôn trọng mạng sống, quyền lợi, danh dự, hạnh phúc của nhân loại và các giới chúng sanh.

        d) Sử dụng đúng lẽ công bằng, từ bi, bác ái, tích đức, khoan dung. Đức Thầy luôn nhắc nhở:

                “Thứ tư Chánh nghiệp mặc dầu,

                 Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay”.

        6.- LỢI ÍCH:

        Hành giả tu Chánh nghiệp xong sẽ đặng các điều lợi ích đáng kể:

        a) Gia đình hạnh phúc, thân thể khỏe mạnh, sống lâu và no ấm đời đời. Tâm trí sáng suốt, mau thành Đạo giải thoát.

        b) Được mọi người kính phục và hướng theo.

        c) Nghiệp oan tội khổ tiêu dần, khỏi đọa ba đường ác.

        7.-  KẾT LUẬN:

        Đại để, người hành được Chánh nghiệp, không còn bị các oan trái cay nghiệt, đời đời thanh tịnh an vui và thẳng đến khi thành quả Bồ đề.

 

   CHÚ THÍCH :

         THAM THIỀN: Tham là suy gẫm; Thiền là tịnh lự, là tư duy. Ý nói để tâm yên tịnh, suy gẫm Đạo lý mầu nhiệm:“Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham thiền”.( ĐT)

        NHẬP ĐỊNH: Vào chánh định, bằng cách ngồi yên lặng hay trong tứ tướng oai nghi ( đi, đứng, nằm, ngồi), tâm trí luôn trong lặng thuần chánh và sáng suốt.

        TRÌ TỤNG: Trì là gìn giữ và làm theo; tụng là đọc, xem. Ý chỉ cho việc công phu bái sám, hoặc đọc tụng Kinh sách hằng ngày. Đức Thầy dạy:

        Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,

          Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta”.

        KINH HÀNH: Đi một cách thung dung quanh chùa tháp, hoặc chỗ tịch mịch để niệm Phật hay suy gẫm (thiền định) việc Đạo lý để phát sanh trí huệ.

        CÔNG QUẢ: Công là việc làm hay hạnh đức hoặc trí năng của mình làm. Quả là kết quả. Đức Thầy có câu:

                “Nguyện đem công quả tu hành,

          Cứu trong Tông Tổ vãng sanh Liên đài”.

        BUÔN TẢO BÁN TẦN: Tần là một loại rau; Tảo là rong biển (rau tần rau tảo). Ý nói bận lo buôn bán hoặc làm nhiều việc vất vả:“Tảo tần lo liệu năm ba”.( ĐT)

        Hay là:“Ta thương xót lo tần lo tảo”.( ĐT)

        BẤT NHÂN: Không có nhân đức, không thương người mến vật.

        ĐẦU CƠ: Đầu là ném lại; là cơ hội. Thừa cơ hội làm lợi cho mình, bằng cách không hợp lý hợp pháp:“Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi”.( ĐT)

        TRỤY LẠC: Sa ngã vào chỗ hư hèn, như “Tứ đổ tường” (tửu, sắc, tài, khí).

        HOANG ĐÀNG: Cũng gọi là hoang đường. Ý nói người hoang chơi theo “tứ đổ tường” (tửu, sắc, tài, khí), không kể đến nhà cửa, vợ con, cha mẹ…

        TRÀ ĐÌNH TỬU ĐIẾM: Phòng trà quán rượu có chứa gái điếm. Đây chỉ cho hạng người quá đam mê tửu sắc, hằng ngày la lết nơi nhà điếm, quán rượu, không kể đến gia đình, cha mẹ, vợ con..

 

4.- CHÁNH TINH TẤN

 CHÁNH VĂN

          CHÁNH TINH-TẤN.- Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới.

          Phái vô-thần-luận thường cho rằng thân xác tức là con người. Thân còn tức là ngưòi còn, thân mất, người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật, không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên, biết bao nhiêu mánh-khoé gian-hùng, bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.

          Vì vậy, mục Chánh tinh-tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thể lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế, trước hết phải tìm phương tự-giác, nhắm cảnh Niết-Bàn tấn tới, quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt dìu bá tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn các điều tà vạy, dẹp lục-căn lục-trần và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ: yên tịnh, hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế độ chúng-sanh thoát luân-hồi quả-báo.

 

  LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        – CHÁNH TINH TẤN: là tín ngưỡng chơn chánh, bền chắc và lướt tới một cách hăng hái mạnh mẽ, chuyên cần.

        – TÀ TINH TẤN: là mê tín theo tà thuyết, chần chờ, giải đãi, nghi ngờ Trời Phật.

        2.-  NGUYÊN NHÂN:

        Bởi óc dễ tin, nghi ngờ và hột giống giải đãi, yếu ớt có sẵn trong tâm thức con người từ vô thỉ, nên khi gặp sự tuyên truyền của các tà thuyết, vô thần hoặc dục tình cám dỗ, vật chất cuốn lôi, liền  nghe theo.

        3.-  HÀNH TRẠNG TÀ TINH TẤN:

        a) Không tin có Trời Phật Thần Thánh, quả báo luân hồi, tội phước hay thiên đường, địa ngục hoặc linh hồn.

        b) Chỉ lo tranh đấu mạnh được yếu thua.

        c) Tạo những tội lỗi, mánh khoé gian hùng, điêu ngoa xảo trá, tàn bạo ngược ngang.

        d) Áp bức mọi người để có quyền uy và thụ hưởng trên hết.

        4.- TAI HẠI TÀ TINH TẤN:

        Người sống theo tà tinh tấn có những tai hại:

        a) Mất chánh tín.

        b) Gây đau khổ muôn loài.

        c) Bị nghiệp chướng kéo dài trong luân hồi sanh tử.

        d) Dù có tu, song giải đãi yếu ớt nên rất lâu đắc thành đạo giải thoát.

        5.-  HÀNH CHÁNH TINH TẤN:

        Muốn đạt được Chánh tinh tấn, ta cần phải:

        a) Giữ chánh tín mạnh mẽ, sáng suốt, không để uy quyền hay thị dục lôi cuốn. Đức Thầy khuyên:

        “Chánh Tinh tấn dầu thành hay bại,

          Cứ một đường tín ngưỡng của mình.

          Dầu cho ai phá rối đức tin,

          Ta cũng cứ một đường đi tới”.

        b) Luôn nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh của Đức Thế Tôn.

        c) Chúng sanh còn khổ thì ta cũng đồng khổ với họ.

        d) Xét vì ta có bổn phận giác ngộ trần gian, xa rời tục lụy. “Muốn thế trước hết phải tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn tấn tới; quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả…”.

        e) Cương quyết dẹp các điều tà vạy và lục căn, lục trần.

        g) Rèn luyện các đức tánh:“Thiện mỹ, yên tịnh, hỷ lạc, nghiêm trang”:

                “Thứ năm tinh tấn hội đàm,

            Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan”.( ĐT)

        6.-  LỢI ÍCH:

        Người hành được Chánh Tinh Tấn sẽ đặng nhiều điều lợi ích:

        a) Đường tu không còn nghi ngờ do dự, luôn thi hành chánh tín một cách mạnh mẽ.

        b) Không còn bị tà thuyết, vô thần hay thị dục lôi cuốn.

        c) Được chư Thiên và mười phương Phật hộ trì.

        d) Tế độ được vô số chúng sanh tu hành giải thoát.

        e) Sớm đạt được diệu trí và vào bực bất thối.

        g) Được lực vô úy và chóng thành Đạo Bồ đề.

        7.-  KẾT LUẬN:

        Tóm lại, khi hành được chánh tinh tấn không còn thối đọa trong ba đường ác, tâm hồn luôn tự tại trong cuộc hóa độ chúng sanh các cõi.

 

CHÚ THÍCH :

        VÍA: Một phần trong linh hồn con người lúc còn sống. Người ta  thường nói “hết hồn hết vía”, hay “nhẹ bóng vía”.

        MÁNH KHÓE: Mưu mô xảo trá.

        GIAN HÙNG: Dối trá xảo quyệt. Đức Thầy có câu:

        Lũ gian hùng mang lấy họa ương,

           Trời đất xử những người bội phản”.

        ĐỨC TIN: Sự tin tưởng về Đạo đức cao cả.

        BỨC BÁCH: Ép buộc thúc giục.

        TÍN NGƯỠNG: Lòng tin tưởng và ngưỡng mộ.

        ĐỨC THẾ TÔN: Một trong 10 hiệu của Phật Thích Ca, có nghĩa cả ba cõi thế gian đều tôn Ngài là Thầy, là đấng Cha lành:

                Ngài là vua Pháp tột cao,

            Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tài.

                      Tiên người đồng kính Đạo Thầy,

           Cha lành hết cả bốn loài chúng sanh”.( ĐT)

        GIÁC NGỘ: Nghĩa của chữ Phật (đấng Giác ngộ), nhưng bốn chữ “Giác ngộ trần gian” ở đây có nghĩa là tỉnh thức kẻ còn mê trong cõi trần.

        OAN TRÁI: Nghiệp nợ do mình tạo tội ác, oan nghiệp kiếp trước mà kiếp nầy phải trả.

        TỰ GIÁC: Tự mình tỉnh ngộ sáng biết, tự giác là một trong 3 giác của Phật (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).

        Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.( ĐT)

        NIẾT BÀN: Phiên âm  Phạn ngữ Nirvàna, Tàu dịch có nhiều nghĩa. Ở đây chỉ giải một ít nghĩa:

        1-DIỆT ĐỘ: Một nơi hoàn toàn an nhiên tịch tịnh, không còn hoặc nghiệp phiền não sanh tử luân hồi.

        2-VIÊN TỊCH: Công đức viên mãn trùm khắp sa trần gọi là Viên; trí huệ cụ túc, dứt sạch nghiệp chướng khổ lụy gọi là Tịch. Cũng chỉ trở lại bản tâm viên tịch để thoát trầm nịch khổ hải.

        3-BẤT SANH BẤT DIỆT: Chẳng còn một niệm sanh, nên chẳng còn sự chết khổ:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.( ĐT)

        Ngoài ra, Niết Bàn cũng còn có nghĩa là vô vi, tịch diệt, giải thoát và an lạc…

        LỤC CĂN: Sáu căn, tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nó hay xúi giục tâm hồn người ô nhiễm theo sáu trần. Nó cũng gọi là 6 con giặc (lục tặc).

        LỤC TRẦN: Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Đức Thầy dạy:

        Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần”.

        YÊN TỊNH: Lặng lẽ trong sạch.

        HỈ LẠC: Vui mừng vì không còn các nỗi khổ làm bận tâm, chẳng phải như chữ hỉ lạc trong thất tình.

        NGHIÊM TRANG: Đoan trang nghiêm chỉnh.

 

 5.- CHÁNH MẠNG

 CHÁNH VĂN

          CHÁNH-MẠNG.- Sanh mạng chân chánh, trong sạch.

          Ở đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quý trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng, ý ưa chức phận cao.

          Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu-diệt.

          Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối; bỏ hết đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết-Bàn.

 

LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        – CHÁNH MẠNG: là sanh mạng chơn chánh trong sạch, sống theo trí huệ đạo đức.

        – TÀ MẠNG: Đời sống tà vạy nhơ xấu, sống theo vô minh dục vọng.

        2.-  NGUYÊN NHÂN TÀ MẠNG:

        Người đời vì quá quí trọng xác thân và lo bảo vệ săn sóc nó, nên tạo nếp sống nhơ bẩn tà ác…

        3.-  HÀNH TRẠNG:

        Bởi tâm hồn sống theo tà mạng, nên để lục căn ô nhiễm lục trần, như:

        -“Mắt ưa xem sắc đẹp – Tai ưa nghe tiếng hay.

        – Mũi ưa ngửi mùi thơm – Lưỡi ưa đồ ngon béo.

        – Thân ưa sự sung sướng – Ý ưa chức phận cao”.

        4.- TAI HẠI:

        Người sống theo Tà mạng nên thường chuốc lấy những tai hại:

        a) Trí huệ mờ ám ngu đần.

        b) Không còn lo nghĩ đến sự tiêu diệt giống sanh tử.

        c) Gây nhiều nghiệp tội để phải luân hồi đền trả.

        5.-  HÀNH CHÁNH MẠNG:

        Để sống đúng theo Chánh Mạng, hành giả phải ghi nhớ những điểm như sau:

        a) Đối với bên ngoài ta phải xa lánh những điều làm cho tinh thần bị đen tối, như: lục trần, lục dục, đài các xa hoa. Lục căn đối với lục trần, tâm không hề ô nhiễm, lúc nào cũng vẫn như như bất động.

        b) Bên trong tự chủ thân tâm, nhắm mục tiêu bất diệt, bất sanh tiến tới. Đức Thầy dạy:

        “Mục Chánh mạng chúng sanh ơi hỡi,

          Cho linh hồn cai quản châu thân.

          Lấy chơn nhơn dẹp tánh phàm trần,

          Mới có thể mong về Cực Lạc”.

        c) Muốn đạt đến Cực lạc tự tánh ta phải tu tập Thiền định làm thể chất căn bản. Thiền định được, tức trí huệ sáng mầu, từ đó ta cứ sống theo trí huệ, nên khỏi bị khách trần lôi kéo, gạt gẫm.

        6.-  LỢI ÍCH:

        Tu chánh mạng hành giả sẽ được các điều lợi ích:

        a) Linh hồn đặng nhập liên hoa tự tánh (thể thanh tịnh).

        b) Siêu sanh vào cõi Niết Bàn (bất diệt bất sanh).

        Tóm lại hai phần: thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng là cái nhân tu hành; còn linh hồn nhập liên hoa và siêu sanh vào cõi Niết Bàn là cái kết quả.

        7.-  KẾT LUẬN:

            Đại khái khi hành được chánh mạng, không còn ác duyên trầm trệ trong lục đạo, thân tâm khinh khoái mà vào cõi giải thoát và hóa độ đặng vô số chúng sanh.

 

CHÚ THÍCH :

        TRÍ TUỆ: Phạn ngữ Prajna, phiên âm Bát nhã. Dịch là Trí tuệ hay Trí huệ . Hiểu rành các việc về hữu vi (hình tướng) gọi là Trí; thông suốt mọi lẽ, mọi pháp về nội tâm (vô vi) gọi là huệ (tuệ). Trí linh mẫn, sự thông minh sáng suốt về mặt thiêng liêng ( tinh thần) cũa mỗi người ( Theo Từ Điển Đặc Dụng cũa Nguyễn Văn Chơn, tr. 1069).

        XA HOA: Chưng diện lòe loẹt tốn kém. Đức Thầy dạy:             

        Khuyên đừng xài phí xa hoa,

          Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.

        THIỀN ĐỊNH: Do chữ Thiền na, Dhyana. Có nghĩa để tâm trong sạch, yên lặng mà suy gẫm việc Đạo lý mầu nhiệm, không phân biệt ngồi nằm hay đi đứng, cách nào cũng thiền định được cả. Đức Thầy khuyên:

        Sớm tối đi nằm y chánh pháp” . Và:

          “Quay về cội phúc đường chân Đạo,

           Phật pháp Thiền na dốc thực hành”.

        THỂ: là gốc, là bản chất của mọi sự vật. Ví như tất cả bàn, ghế, giường, ngựa…thể chất nó bằng cây làm ra. Các món nữ trang, thể chất nó bằng vàng. Các loại bánh ngọt, thể chất nó bằng bột và đường. Thể chất tốt thì các món làm ra đều tốt, bằng thể chất xấu thì cái gì cũng xấu.

        THIỀN ĐỊNH ĐẶT LÀM THỂ: Nhà tu muốn tiến đến Niết Bàn trước phải tu Thiền định làm căn bản. Có thiền định được, trí huệ mới sáng tỏ và mọi suy nghĩ nói làm đều được trọn lành trọn sáng, tiến đến giải thoát. Bằng thiếu thiền định thì ý nghĩ hay nói làm đều xấu ác, quả Đạo bất thành.

        TRÍ TUỆ ĐẶT LÀM MẠNG: Người tu khi trí huệ được sáng tỏ, từ ấy mạng sống nương theo trí huệ mà vào Niết Bàn, không hề sai lệch. Như người đi đêm có đèn đuốc không lầm đường hay va chạm vào cây đá làm thiệt hại thân mạng.

        LINH HỒN NHẬP LIÊN HOA: Thần thức được hòa vào bản lai thanh tịnh tự tánh. Ý nói khi tâm hồn nhà tu được vào thể thanh tịnh, thì đối với các cảnh tượng lành dữ hay danh, lợi, tình…tâm mình vẫn an nhiên tự tại. Cũng như hoa sen dầu sống trong bùn vẫn không bị bùn làm hoen ố. “Cư trần bất nhiễm”, “Lẫn tục đừng mê”.

        SIÊU SANH VÀO CÕI NIẾT BÀN: Cũng gọi là nhập Niết Bàn, tức là siêu thoát vào cõi bất sanh bất diệt. Người tu thiền định được, tuy còn mang xác phàm như bao nhiêu kẻ khác, nhưng tâm hồn đã dứt sạch hoặc nghiệp phiền não, sanh tử luân hồi, nên gọi là vào Niết Bàn. Đức Thầy từng nói:

         Cảnh Niết Bàn là nơi cứu cánh,

           Về chốn ni xa lánh hồng trần”.

        Hoặc là:“Niết Bàn tịch tịnh là đường vô sanh”.

 

6.- CHÁNH NGỮ

      CHÁNH VĂN

          CHÁNH-NGỮ.-  Lời nói chơn thật.

          Lục-căn làm cho con người nhiễm lục-trần.

          Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những điều tội lỗi ấy cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: Lưỡng-thiệt ( làm cho thiên hạ bất hoà nhau), Ỷ-ngôn ( lời chưởi mắng kẻ dưới tay), Ác-khẩu ( tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh), Vọng-ngữ (nói láo, nói huyễn hoặc).

          Hãy tập lời nói mình cho chân-chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc cằn, phàm những khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức-hạnh và  những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.

 

LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        – CHÁNH NGỮ: Lời nói chơn chánh thành thật.

        – TÀ NGỮ: Lời nói xảo ngôn dối trá, tà vạy.

        2.-  NGUYÊN NHÂN SANH TÀ NGỮ:

        Người sống theo Tà ngữ vì muốn nuôi dưỡng xác thân, mới sanh ra các lời nói tà vạy. Chính nó là nguồn cội của các tội lỗi, nên gọi là nghiệp chướng của miệng lưỡi:

        Việc tráo chác ấy là nguồn cội,

           Lời xảo ngôn do đó mà ra.( ĐT)

        3.-  HÀNH TRẠNG:

        Hành trạng của Tà ngữ có bốn phần:

                – Lưỡng thiệt: làm cho thiên hạ bất hòa nhau.

        – Ỷ ngôn: lời chưởi mắng kẻ dưới tay.

        – Ác khẩu: tiếng độc ác tục tằn chưởi rủa thần thánh.

        – Vọng ngữ: nói láo, nói huyễn hoặc.

        4.-  TAI HẠI:

        Người còn Tà ngữ tất còn vương mang các họa hại:

        a) Bị mọi người chán chê xa lánh.

        b) Chư Thiên và Thần Thánh không ủng hộ.

        c) Gây nhân luân hồi quả báo, từ đời nầy sang đời khác, rồi đời khác nữa.

        5.-  HÀNH CHÁNH NGỮ:

        Để thi hành Chánh ngữ, Đức Thầy dạy:

        “Thứ sáu Chánh ngữ liệu toan,

          Nói năng điều chánh thì an chớ gì”.

        Hoặc là:

        “Câu Chánh ngữ lòng son ghi tạc,

          Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường.

          Nói những điều đức hạnh hiền lương,

          Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi”.

        Do đó, nhà tu phải chuyển đổi ngôn ngữ từ tà ra chánh:

        a) Hãy tập sửa lời nói mình cho được “chơn chánh đúng với sự thật”.

        b) Chừa bỏ những tiếng xảo ngôn tráo chác, thô lỗ, tục tằn.

        c) Khi bàn luận việc chi phải nói tỏ tường ngay thẳng.

        d) Nên khuyên “Kẻ khác làm theo lẽ phải, đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh thần Đạo đức”.

        6.-  LỢI ÍCH:

        Khi hành được chánh ngữ, hành giả sẽ đặng các điều lợi ích:

        a) Khẩu nghiệp thanh tịnh.

        b) Được mọi người tin tưởng nghe theo.

        c) Chư Thiên và Quỉ thần thường ủng hộ.(Xưa, có một nhà Sư đang ngồi thiền định, thấy hai Sa di đang trò chuyện trước hành lang chùa, còn các Thiên thần kẻ quì, người ngồi chung quanh lắng nghe một cách cung kính. Lát sau, thấy họ phun nước miếng tỏ vẻ khinh bỉ rồi bỏ đi…Khi xuất định, Sư kêu hỏi: Lúc nãy hai người nói chuyện gì thế ? Hai Sa di không dám dấu, vì biết Thầy đã đắc nhãn quan, nên nói thật: Lúc đầu chúng tôi thảo luận bài Giáo lý mà Thầy đã giảng hôm qua. Kế đó chúng tôi bàn về việc thế tục. Sư liền kể cho hai đệ tử biết việc bị Chư Thần khinh bỉ, và khuyên: Từ đây hãy ráng ngăn chừa tà ngữ mà phải luôn nói chánh ngữ.)

        d) Miệng lưỡi thơm tho, ngôn ngữ siêu thắng, thuyết phục được nhiều người hướng thiện.

        7.- KẾT LUẬN:

        Tóm tắt, ai hành được Chánh ngữ, không còn bị quả báo về khẩu nghiệp. Thường nói lời hiền lành đạo đức, đem lại sự lợi lạc cho mọi người, mọi giới và đường về Niết Bàn, Cực Lạc không còn bị chướng ngại.

 

CHÚ THÍCH :

        LỤC TRẦN: (Xem chú thích chữ Lục trần mục Chánh Tinh tấn, tr.101 ).

        NGHIỆP CHƯỚNG: (Xem chú thích chữ Nghiệp chướng bài “Luận về Tam nghiệp”, tr. 45).

        ĐỨC HẠNH: Đức là tâm lành, từ bi và bình đẳng; Hạnh là nết tốt, cử chỉ đoan trang lễ phép. Đức Thầy dạy: “Tròn đức hạnh mới là báu quí”.

 

 7.- CHÁNH NIỆM

     CHÁNH VĂN

          CHÁNH-NIỆM.- Ghi nhớ sự chân chánh.

          Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng … Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí-não phụng-sự nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí … được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế, con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.

          Để thoát chỗ luân-hồi, bỏ cuộc đời lầm than hoạn-họa, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành Đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc động các mối dục tình, tránh điều lụy khổ do nó gây nên.

 

  LƯỢC GIẢI :

          1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        – CHÁNH NIỆM: là ghi nhớ sự chơn chánh.

        – TÀ NIỆM: là ghi nhớ sự tà vạy nhơ xấu.

        2.- NGUYÊN NHÂN TÀ NIỆM:

        Do thất tình lục dục sai khiến làm cho con người đem hết tâm cơ trí lực phụng sự nó, nên nảy ra sự nhớ tưởng tà vạy nhơ xấu.

        3).- HÀNH TRẠNG:

        Người còn tà niệm thường ghi nhớ những:“danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí…”và các điều: còn mất, có không, thành bại, thương ghét, … không phút nào yên tĩnh.

        4.-  TAI HẠI:

        Người sống theo tà niệm tất còn vương phải tai hại là “niệm niệm mê lầm chẳng dứt” nên phải lăn lộn mãi trong sáu nẻo luân hồi không thoát khỏi vòng sanh tử.

        5.-  HÀNH CHÁNH NIỆM:

        Muốn đạt được chánh niệm, nhà tu cần phải thi hành các phương cách như sau:

        a) Luôn tưởng niệm những phương pháp hành Đạo, gạt bỏ các điều phù phiếm ra khỏi tâm tưởng.

        b) Ghi nhớ công lao và lời chỉ dạy của Phật, của Thầy.

        c) Xét nghĩ đến thân tứ đại giả hợp, để lòng không còn chấp trước. Đức Thầy đã dạy:

        “Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

          Vật ở trần như bọt nước làn mây.

          Thân ta còn rày đó mai đây,

          Của ấy cũng khi tan khi hiệp”.

        d) Hãy tiến tu để chứng được chơn tâm thường trụ bất hoại.

        6.-  LỢI ÍCH:

        Người hành chánh niệm được kết quả:

        a) Đối với mọi trần cảnh, tâm không xúc động và luôn được an nhiên tự tại.

        b) Dứt hết cuộc đời lầm than khổ lụy.

        c)Tâm hạnh, phúc trí càng ngày càng vươn lớn, khiến ai cũng kính tin.

        7).- KẾT LUẬN:

        Tóm tắt, người hành được Chánh niệm, sẽ đạt quả giải thoát, dứt sanh tử luân hồi và sớm thành bậc Chánh giác.

 

CHÚ THÍCH :

        THẤT TÌNH: Bảy cái tình trong tâm tưởng con người, tức là:“Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục”. Có nghĩa: mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn. Bảy cái tình ấy ví như bảy con ma, hay xúi người làm quấy. Đức Thầy hằng khuyên:“Thắng thất tình giữ vẹn đạo trung”.

        LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn của vọng tâm đối với sáu trần cảnh là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Lục dục cũng gọi là: sắc trang, tài lợi, danh vị, tư vị, hư vọng, tật đố. Nó ví như sáu con ma hay khơi gợi người đam mê ưa thích làm điều xằng bậy. Đức Thầy răn dạy:

        Trừ lục dục chớ cho ô nhiễm”.

        TÂM CƠ: Cơ mưu riêng trong lòng.

        TRÍ NÃO: Trí óc. Nói riêng về sự hiểu biết tính toán.

        SÁU ĐƯỜNG: Nghĩa của chữ “Lục đạo”. Cũng gọi là 6 nẻo luân hồi, gồm có: cõi Trời, cõi người, cõi Thần, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Đức Thầy có câu:“Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra”.

        PHÙ PHIẾM: Bâng quơ, không thiết thực.

        XÚC ĐỘNG: Động lòng, mủi lòng, cảm động nhiều.

        LỤY KHỔ: Tai hại khổ sở.

 

 8.- CHÁNH ĐỊNH

 CHÁNH VĂN

          CHÁNH-ĐỊNH.-  Suy gẫm chân-chánh.

          Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên … nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ nhen, thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm, nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái sanh, cái bịnh, cái lão, cái tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác … rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bả lợi danh, mùi phú quí, đi theo những vặt-vụn, tiểu ti, eo-hẹp.

          Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù du của trần-thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh-viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn hết khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự Chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt, không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết sự phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải-thoát.

 

 LƯỢC GIẢI :

        1.-  ĐỊNH NGHĨA:

        – CHÁNH ĐỊNH: Suy gẫm chơn chánh tốt lành.

        – TÀ ĐỊNH: Suy gẫm tà vạy, lầm lạc, nhơ xấu.

        2.-  NGUYÊN NHÂN TÀ ĐỊNH:

        Do lòng ích kỷ muốn hưởng mọi dục lạc giả tạm trong cõi trần, mới sanh ra tà định.

        3.- HÀNH TRẠNG:

        Tâm trạng của người sống theo tà định:

        a) Thường có những ý định làm cho mình được cao sang, giàu có, sung sướng và sáng biết nhỏ nhen thấp thỏi.

        b) Không nhận thấy cuộc đời tạm giả, đổi dời, thân vô thường theo định luật: sanh, già, bịnh, chết mà cả nhân loại không một ai thoát khỏi.

        4.- TAI HẠI:

        – Người còn tà định thì tâm trí mãi cuống cuồng theo bả lợi danh, mồi phú quí.

        – Chạy theo những vặt vụn tiểu ti eo hẹp, nên mãi gây nghiệp trần mê, luân hồi sanh tử.

        5.-  HÀNH CHÁNH ĐỊNH:

        Muốn tu cho đạt được Chánh định, hành giả phải thực hiện các điều:

        a) Hãy suy gẫm nhận xét ngoài cảnh phù du trần thế, còn có cảnh bất sanh bất diệt, vĩnh viễn trường tồn.

        b) Cõi siêu phàm ấy không còn buồn khổ hay quả báo, luân hồi.

        c) Hãy thiền định để phá tan màn vô minh phiền não và các làn sóng thị dục.

        Về pháp thiền định, Đức Thầy dạy:

        “Thứ tám Chánh định chớ lầm,

          Từ bi hai chữ đứng nằm chớ quên.

                   Ngồi đâu cũng định mới nên,

          Đừng cho công việc hớ hênh với người”…

        Hoặc là:

        “Mục Chánh định thật là rất khó,

          Giữ tấm lòng bất động như như.

          Cho hồn linh yên lặng an cư,

          Thì mới được huờn nguyên phản bổn”.

        6.- LỢI ÍCH:

        Người hành được Chánh định sẽ đặng nhiều lợi ích đáng kể:

        a) Bên trong, tâm chẳng còn xao động, các món phiền não tiêu tan, trí tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt:“Nội quang cảnh tâm vô kỳ vật”.( ĐT)

        b) Bên ngoài, không duyên nhiễm theo các trần cảnh. Tuy sống chung với mọi người, mọi hoàn cảnh, nhưng lòng vẫn như như bất động, tự tại giải thoát:

         Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình”.( ĐT)

        7.-  KẾT LUẬN:

        Tóm lại, khi hành được Chánh định, tâm ta chẳng còn loạn động vì phiền não gây ra, lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt. Thấy biết phân tách vạn pháp được rõ ràng, như thấy chỉ tay trong bàn tay và chứng đại định Niết Bàn.

 

TỔNG KẾT VỀ BÁT CHÁNH ĐẠO:

        Đại khái, Bát Chánh Đạo là một trong “Tứ Diệu Đề”, là tám pháp Đạo phần trong 37 phẩm trợ Đạo. Là pháp tu căn bản duy nhứt của các bậc Bồ Tát và La Hán. Khi xưa, Đức Phật đã di chúc:“Nơi nào có Bát Chánh Đạo là Chánh Đạo, nơi nào không có Bát Chánh Đạo là tà đạo”. Cho nên ngày nay Đức Thầy mới bảo:

        Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy,

           Là chơn truyền của Đức Thích Ca”.

        Do đó, người tu Phật hiện nay, không một ai chẳng trì hành Bát Chánh Đạo.

 

CHÚ THÍCH :

        LẠC LUÂN: Lưu lạc rày đây mai đó, hoặc lên xuống theo bánh xe luân hồi.

        PHÙ VÂN: Mây nổi. Ý chỉ cái gì không bền chắc, thấy đó rồi mất đó. Đức Thầy có câu:

        “Cuộc phù vân phú quí nay mai,

           Luân với chuyển dời qua đổi lại”.

        PHÙ DU: Một thứ côn trùng nhỏ như chuồn chuồn bay trên mặt nước. Tối lại, thấy ánh sáng của bóng đèn bay quanh theo, rồi bị lửa nóng chết. Ý nói kiếp sống con người quá ngắn ngủi, dù có tham luyến vật chất tiền tài cũng chẳng hưởng lâu bền mà lại phải chết vì nó. Đức Thầy đã nói:

         Con phù du hẫng hờ nào biết,

          Thấy bóng đèn thì quyết chun vô.

          Thảm thương thay chết héo chết khô,

          Nhìn đèn nọ thấy mồ phù dũ.

        Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,

          Đeo danh lợi như con vật ấy”.

        BẢ LỢI DANH: Bả là đồ ăn có tẩm thuốc độc. Ý nói ai tham danh lợi như người tự uống thuốc độc mà chết.

        MÙI PHÚ QUÍ: Cũng viết là mồi phú quí. Ý nói sự phú quí vinh hoa như miếng mồi có mùi thơm, tức có lưỡi câu trong đó, ai tham phú quí như cá tham mồi thì phải mắc câu, tất có hại.

        KHÔNG DI KHÔNG DỊCH: Chẳng dời chẳng đổi. Chỉ cho cái gì còn hoài không mất, ám chỉ chơn tâm vô tướng.

        U MINH: Tối tăm mù mịt, cũng gọi là vô minh.

        PHIỀN NÃO: Hán học giải là buồn rầu, lo sợ, sân si. Phật học giải là cái vọng niệm tà quấy sai lầm. Phiền não kể ra có vô lượng, nhưng tóm tắt lại gồm có ba món căn bản là:“Tham, Sân, Si”, nguồn gốc nảy sanh vô vàn trần lao phiền não khác. Trong bài “Các Câu Chú” Đức Thầy có dịch:

         Nghe chuông phiền não tiêu tan,

            Bồ đề tâm mở trí toan huệ mầu”.

CÁCH THỜ PHƯỢNG, HÀNH LỄ VÀ SỰ ĂN Ở CỦA MỘT TÍN ĐỒ PGHH

          Như đã biết, vừa qua là Phần Một của QUYỂN  SÁU mà từ trước trong Đạo đã ấn định là môn học “GIÁO LÝ CĂN BẢN”. Còn tiếp đây là Phần Hai của QUYỂN SÁU, thuộc về môn học “NGHI THỨC THỜ CÚNG và GIỚI LUẬT”. Trong đây gồm có 13 đề mục:

1.    Thờ phượng

2.    Hành lễ

3.    Tang lễ

4.    Cách cầu nguyện cho người chết

5.    Hôn nhơn

6.    Những diều phải tránh hoặc được châm chế hoặc nên làm

7.    Họat động hàng ngày: -Thể dục – Ăn ở – Làm ăn

8.    Điều kiện vào Đạo
Nội dung có nhiều tiết mục mà người đã vào Đạo, hoặc ai muốn qui y vào Đạo cũng phải học hỏi nghiên cứu chính xác để thi hành theo. Đức Thầy luôn giác tỉnh:

        Giảng Kinh đọc tụng chiều mai,

           Làm theo lời chỉ ngày rày gặp Ta”.

        Hay là:

        “Sớm tỉnh Kệ Kinh tìm hiểu lý,

            Một ngày hiệp mặt hết mờ lu”.

       

                                           1.- CÁCH THỜ PHƯỢNG

(SGTVTB 2004, tr. 201-202)

 CHÁNH VĂN

          Từ truớc đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình-tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ-Bi mới làm ra thờ-phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi-dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không có ý hủy-báng sự phượng thờ của các chùa-chiền. Cách thờ-phượng ấy tùy theo điều kiện các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư-sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn-giản cho lòng tin-tưởng trở lại tâm-hồn hơn ở vào sự hào nháng bề ngoài. Từ trước, chúng ta thờ trần điều là di-tích của Đức PHẬT THẦY TÂY-AN để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông-phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn-chỉ của Đức PHẬT, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu-hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân-loại không phân biệt chủng tộc và cá-nhân. Vì vậy, chúng ta dùng nó trong chỗ thờ-phượng để tiêu-biểu cho tinh-thần vô-thượng của nhà Phật.

          Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông-Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài. Còn người nào có cốt PHẬT trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải ở chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến giờ cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.

          Về cách cúng PHẬT, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra, chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ Ông Bà cúng món chi cũng đặng.

          Ngoài sự thờ PHẬT, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh-hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn-tích.

 

 LƯỢC GIẢI :

        A. CÁC NGÔI THỜ CÚNG :

        Theo nghi thức thờ phượng của PGHH thì trong gia đình của mỗi tín đồ đều có ba ngôi thờ cúng.

        1- BÀN THỜ PHẬT, cũng gọi là Ngôi Tam Bảo, thờ ở giữa nhà, cao hơn bàn Cửu Huyền Thất Tổ. Theo Đức Thầy cho biết: các chùa trong Đạo Phật từ trước tới giờ, người ta trang trí quá nhiều hình tượng. Tuy vì sự tôn kính Phật, Pháp, Tăng, song cũng có người lợi dụng nơi ấy để sanh sống. Bây giờ chúng ta không nên thờ hình tướng như vậy nữa, đây không có ý hủy báng sự thờ phượng của các chùa, đó là tùy theo điều kiện của các Tăng Sư, chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng.

        Riêng về cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không nên thờ theo hình thức đó, mà nên thờ đơn giản lại, để cho lòng tín ngưỡng xoay về tâm hơn là sắc tướng bên ngoài.

        Lúc Đức Giáo Chủ PGHH mới khai Đạo (1939), Ngài dạy tín đồ trang trí ngôi Tam Bảo bằng một bức trần điều (màu đỏ), là vì noi theo truyền thống của Đức Phật Thầy Tây An. Đến tháng 2 năm Canh Thìn (1940) có người tự xưng cùng một Tông phái, cũng thờ trần điều như vậy, nhưng họ làm sai tôn chỉ của Đức Phật, nên Đức Thầy cho toàn thể trong Đạo đổi lại bức trần màu dà. Ngài cũng cho biết ý nghĩa:

        Từ trước tới giờ các nhà tu hay dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục, bởi màu dà do sự kết hợp với các màu khác mà thành, nên dùng nó cũng để tượng trưng cho sự hòa hợp, bình đẳng nhân loại…Chính bức trần dà ấy cũng tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật. Là một tín đồ PGHH, chúng ta không nên thờ phượng cách nào khác.

        2- BÀN THÔNG THIÊN: Bàn này dựng trước sân nhà, hoặc dựa mái nhà cũng được. Theo ý Đức Thầy, nếu trong nhà chật hẹp, chỉ một bàn Thông Thiên cũng được.

        -Cốt Phật đã có từ trước, để y cũng đặng hoặc hiến vào chùa hay cho người Tông phái khác thỉnh. Còn hình tượng bằng giấy nên đốt đi, không nên chừa lại. (Có người hỏi sao tượng bằng giấy thì đốt, còn chơn dung Đức Thầy còn để lại ? – Xin trả lời: Để chơn dung Đức Thầy là kỷ niệm, chớ không phải thờ như tượng Phật. Như đã thấy chỉ để  ở hai bên, chớ chẳng để trong ngôi Tam Bảo.)

        -Trường hợp ở đậu với người không cùng một Đạo, tới thời cúng chỉ niệm thầm đủ các bài nguyện trong tâm cũng được.

        3- BÀN THỜ CỬU HUYỀN THẤT TỔ:

        Bàn nầy đặt ngay giữa nhà, thấp hơn ngôi Tam Bảo, hoặc dưới ngôi Tam Bảo, nhà nhỏ thì làm nhị cấp.

        CÁC VẬT DÂNG CÚNG: Phật Trời không hề dùng vật thực thế gian, chỉ chứng tấm lòng thành mà thôi:

          “Tới với Ta chớ đem đồ cúng,

          Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.

          Chẳng có cần trà, quả, hương nồng,

          Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ”.

        Cho nên Đức Giáo Chủ dạy: bàn Phật và bàn Thông Thiên chỉ được cúng 3 món tiêu biểu mà thôi:

        1-“Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch”

        2-“Bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết.

        3-“Còn nhang dùng đặng bán mùi uế trược”.

        Ngoài ra, không nên cúng một món gì khác cả.

        Còn bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ cúng món chi cũng đặng (có chi cúng nấy).

        NÊN THỜ HOẶC KHÔNG NÊN THỜ NHỮNG AI ? – Người tín đồ PGHH chỉ nên thờ:“Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích”.

B.- Ý NGHĨA BA NGÔI THỜ CÚNG :

        Theo truyền thống Quốc dân Việt Nam chúng ta đều sùng ngưỡng Tam Giáo “Phật, Thánh, Tiên”. Vào thời nước nhà tự chủ qua các triểu đại: Đinh, Lê, Lý, Trần, đều có mở những cuộc thi tổng hợp tam giáo, để tuyển chọn các bậc hiền tài, ra giúp nước vùa dân.

        Do truyền thống đó, PGHH đã hình thành trong lòng dân tộc và cũng mang màu sắc dân tộc. Tất nhiên là lời giáo huấn của Đức Giáo Chủ cũng dung thông cả Tam giáo để khế hợp với tinh thần dân tộc. Như Ngài đã cho biết.

        Trong Tam Giáo ân cần mở đạo,

          Trường ngoại bang phục đáo như xưa”.

        Và những câu:

        “Phật, Thánh, Tiên Đông Độ lướt sang,

          Miền Nam địa phân chia đẳng cấp”.

        Hoặc là:

        “Phật, Tiên, Thánh lòng nhơn hà hải,

          Những ước ao thế giới hòa bình”.

        Vì thế, trong nghi thức thờ cúng, Đức Thầy dạy: nơi tư gia của mỗi tín đồ có 3 ngôi thờ cúng là tượng trưng cho tam giáo: Phật, Thánh, Tiên.

        Vào năm 1968, Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương có họp bàn việc tu học và soạn thảo chương trình “Đạo Pháp Khai Tâm”. Trong đó, có bài “Ý nghĩa ba chỗ thờ cúng”. Nay chúng tôi cũng căn cứ vào đó mà lược giải ra đây:

        1- BÀN THỜ PHẬT: Cũng gọi là “Ngôi Tam Bảo”. Nơi đây tôn thờ vị Giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta Bà (Phật Tổ) và mười phương chư Phật, Pháp, Tăng, cùng Phật Thầy…Nên bàn thờ nầy có ý nghĩa tượng trưng cho Phật Đạo.

        2- BÀN THÔNG THIÊN: Có ý nghĩa: bàn thờ thông lên Trời. Vì trong câu nguyện thứ nhứt có 3 vị: Thiên hoàng (vua các cõi Trời), Địa hoàng (vua các cõi địa ngục), Nhơn hoàng (vua các cõi người). Cũng gọi là vị Chuyển Luân ThánhVương của cõi đời Thượng ngươn Thánh Đức tới đây:“Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc “Tam Hoàng trở lại là đời Thượng ngươn”.( ĐT). Nói chung các vị ấy đều là các bậc: Phật Thánh Tiên.

        Lúc Đức Thầy mới khai Đạo (1939), Đức Ông (thân sinh của Ngài) thấy Ngài sửa lại cái bàn Thông Thiên mà Đức Ông đã thờ từ trước có 2 cấp. Đức Thầy dẹp bỏ cấp dưới và 2 ly gạo muối, chỉ chừa lại 1 cấp, 1 lư hương, 1 chung bông và 3 chung nước.

        Đức Ông liền hỏi:

        -Theo truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương thì thờ Bàn Thông Thiên 2 cấp: Hoàng Thiên và Hậu Thổ, nay Thầy Tư bỏ hết 1 cấp làm sao đủ ?

        Đức Thầy vui vẻ hỏi lại:

        -Ông Cả nói thờ cấp trên là Hoàng Thiên, tức Thiên Hoàng, cấp dưới là Hậu Thổ, tức Địa Hoàng, còn Nhơn Hoàng thờ ở đâu ? Đoạn Ngài nói tiếp:

        -Thờ thống nhứt lại một cấp là đủ hết 3 vị, còn thờ 2 cấp lại bị thiếu !

        Vả lại, các danh từ: Trời, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, non Bồng nước Nhược, non Tiên, Tiên bang…mà Đức Thầy có dùng trong Sấm thi của Ngài đều chỉ cho cảnh Tiên, người Tiên:

                “Kể từ Tiên cảnh Ta về,

           Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm”.( ĐT)

        Xét qua lời chỉ giáo của Đức Thầy và các lý lẽ vừa luận trên, chúng ta có thể hiểu chung một ý nghĩa: Bàn Thông Thiên là Bàn thờ thông lên trời, cũng gọi là bàn thờ Cộng đồng Tam Giáo, dùng để tưởng niệm bốn phương Trời Phật. Nó hàm chứa tinh thần tín ngưỡng Phật Trời muôn thuở, của người dân Việt Nam chúng ta “Thiên tại ốc thiềm đầu”, ra khỏi mái nhà thân mật, người lương dân đã tưởng nhớ Phật Trời. Đức Thầy dạy rành mạch:                    

                “Đi xa thì phải dặn rành,

          Bàn Thông Thiên cũng thiệt hành như y.

                Bốn phương đều đọc vậy thì,

         Cúi đầu bái tạ từ bi Phật Trời”.

        Hoặc là:

              “Cầu Trời Phật độ tiêu tai,

        Cứu trong thiên hạ Đạo khai khắp trời”.

        (Những chữ “…bái tạ từ bi Phật Trời” và “Cầu  Trời Phật độ…”, thấy rõ Đức Thầy dạy cầu nguyện nơi Bàn Thông Thiên, chẳng phải Phật không mà luôn cả Trời (Tiên).

        Tóm lại, qua các lý do kể trên, chúng ta có một nhận định chung là bàn Thông Thiên có ý nghĩa tượng trưng cho Tiên Đạo.

        3- BÀN THỜ ÔNG BÀ hay CỬU HUYỀN THẤT TỔ, tượng trưng cho Thánh Đạo. Bàn thờ nầy do truyền thống của Tổ Tiên ta từ thời Hùng Vương lập quốc tới giờ. Trong đây là tôn thờ Tổ Quốc và Ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp. Theo Tôn chỉ của PGHH thì hai điều TRUNG và HIẾU là then chốt:

        “Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp,

          Quân thần nghĩa trọng hữu thiên niên”.( ĐT)

        Hoặc là:

        “Hiếu trung lòng chớ vội quên,

           Sống lo trọn Đạo thác lên Tiên đài”.( ĐT)

        Là một nền Đạo xuất phát trong lòng dân tộc, người tín đồ PGHH với tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” không thể thiếu bàn thờ ông bà được. Cho nên bàn thờ “Cửu Huyền Thất Tổ” (ông bà) có ý nghĩa tượng trưng cho Thánh Đạo.

 

CHÚ THÍCH :

        THỜ PHƯỢNG: Cũng gọi là phượng thờ hay phụng thờ. Có nghĩa thờ kính và vâng chịu làm theo. Đức Thầy bảo:

“Hiếu trung truyện tích sờ sờ,

Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha”.

        LỢI DỤNG: Thừa cơ hội mưu lợi cho mình mà có hại cho người khác.

        HỦY BÁNG: Phỉ báng, gièm pha nói xấu người ta.

        ĐƠN GIẢN: Đơn sơ, giản dị, không rườm rà phiền phức.

        TRẦN ĐIỀU: Bức trần đỏ, tức tấm tranh màu đỏ, tượng trưng cho sự tốt đẹp. Khi xưa Đức Phật Thầy Tây An khai sáng Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài dạy mỗi tín đồ thờ trên ngôi Tam Bảo một bức trần điều (đỏ) chớ không thờ tượng cốt chi hết, để tượng trưng cho tinh thần vô vi và tình thương yêu nhân loại muôn thuở của dân tộc ta, qua câu Ca dao:

                “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

         Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

        Thời nay lúc mới khai Đạo, Đức Thầy cũng theo di tích nói trên. Ngài dạy nơi nhà của mỗi tín đồ:

        Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần Đỏ,

        Tạo làm chi những cốt với hình”.

          (Nhưng đến tháng 2 năm 1940 thì đổi sang Trần Dà như đã nói trên).

          TÔNG PHÁI: Cũng gọi là Tôn phái, có nghĩa một chi nhánh của Đạo Phật, như: Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông,v.v…

        MÀU DÀ: Sắc hơi nâu nâu. Hồi trước từ tấm vải trắng, người ta lấy vỏ cây dà nấu ra nước rồi nhuộm lại thành màu dà. Sau nầy người ta dùng các màu: đỏ, trắng, đen…hòa hợp lại thành màu dà tươi đẹp.

        Xưa, lúc Thái Tử Sĩ Đạt Ta mới đi tu, Ngài đem bộ nhung phục, đổi lấy bộ đồ dà của anh thợ săn mặc vào, để không còn vướng bận chút mùi cao sang vương giả nào trong người nữa. Bởi thế, từ đó đến giờ các nhà tu thường dùng màu dà, để biểu hiện cho sự thoát tục của mình. Đức Thầy từng nói:

                “Từ mang một tấm áo dà,

           Mùi thiền đã thấm ơn nhà lợt phai”.

        Thế nên dùng màu dà là vừa biểu hiện cho sự siêu thoát và cũng vừa tượng trưng cho sự hòa hiệp, thương yêu, đoàn kết và bình đẳng cả nhân loại không phân biệt chủng tộc hay cá nhân:

                “Dứt trần mang bộ sồng nâu,

          Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm”.( ĐT)

        Cho nên Đức Thầy dạy tín đồ dùng màu dà trong chỗ thờ phượng là để tiêu biểu cho tinh thần từ bi, bình đẳng và vô thượng của nhà Phật.

        BIỂU HIỆN: Hiện ra, bày ra rõ rệt.

        THOÁT TỤC: Thoát khỏi vòng trần tục, không bị các vật dục: danh, lợi, tình chi phối hay ràng buộc.

        TIÊU BIỂU: Cây nêu hoặc tấm bảng nêu lên cho người ta trông vào mà thấy được tinh thần bên trong.

        TINH KHIẾT: Trong sạch cao cả, không chút bợn nhơ, tà quấy. Đức Thầy nói:

        “Mài gươm trí cho tinh cho khiết”.

        UẾ TRƯỢC: Dơ bẩn, hôi thúi.

        ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa; Hùng là vua các loài thú. Chỉ bực hào kiệt, tài giỏi xuất chúng.

        TÀ THẦN: Các vị thần không chơn chánh hay phá phách dân chúng, đặng ăn đồ cúng tế.

        CĂN TÍCH: Gốc tích rõ ràng, có lịch sử chính xác.

 

 2.- HÀNH LỄ

(SGTVTB 2004, tr. 202-203)

 CHÁNH VĂN

          Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu-quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi.

          Tất cả các hành-động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính-toán một cách cẩn-thận, đừng làm chuyện ngông-cuồng vô-ý-thức. Một đừng ỷ-lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ-lại vào sự cứu-vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ-lại vào sự binh-vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn-Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành-động ngông-cuồng không suy-xét cẩn-thận để đến đổi thất bại đem đến sự khó- khăn, khổ-não rồi trách-cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm-lạc ấy rất đáng thương hại.

          Mỗi người hãy nên lấy trí thông-minh nhận xét Đạo-lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức-tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tấn-hóa trên con đường Đạo-đức.

          Những điều sơ-lược giải-thích trên đây, mong rằng toàn-thể trong Đạo suy-gẫm kỹ-càng và thực-hiện để bài-trừ sự mê-tín ngông-cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư-tưởng thiện-hòa của Phật-đạo được phát-triển mau chóng.

 

 LƯỢC GIẢI :

        Hành lễ, tức là sự lễ bái (lạy lục) gồm có các phần:

        1/- THỜ LẠY NHỮNG AI LÚC CÒN SỐNG:

        Theo ý Đức Thầy dạy trong đoạn nầy, chúng ta cũng được lễ bái những vị như “Đức Phật, Tổ Tiên, Ông bà, Cha mẹ lúc còn sống…”

          “Với những kẻ khác nên bỏ hẳn sự lạy người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi”.

        2/- HÀNH ĐỘNG:

        Mỗi người trước khi làm việc gì, dầu đối với người trong Đạo hay ngoài đời, cần phải suy xét, cân nhắc kỹ lưỡng rồi sẽ thi hành không nên làm việc “ngông cuồng vô ý thức”:

         “Một là đừng ỷ lại vào kẻ mạnh.

          Hai là đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh. Ba là đừng ỷ lại vào sự binh vực của Thầy mình”.

        Lúc nào cũng tin sâu vào luật Nhân Quả:

        Tích thiện thì thường có phước dư,

          Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.( ĐT)

        Còn những ai trước khi thi hành mà chẳng chịu suy tính cẩn thận, bàn xét chu đáo, cứ làm càng nói bướng để việc bất thành hay gặp tai nạn khó khăn, rồi vội trách cứ người thân, Đức Thầy hay Trời Phật, Thần Thánh sao không cứu giúp mình. Điều sai lầm ấy thật là đáng tiếc và đáng thương hại !

        3/- NHẬN XÉT ĐẠO LÝ ĐỂ TRÁNH MÊ TÍN:

        Đoạn nầy Đức Thầy dạy chúng ta, mỗi người phải lấy trí huệ mà nhận xét kỹ càng, những lời chỉ giáo của Ngài, rồi sẽ tin và làm theo. Chớ không nên “lấy đức tin thọ lãnh những lời nói đó mà trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tấn hóa trên con đường Đạo đức.”

        Đức Thầy còn nhắc nhở chúng ta, hãy suy gẫm, xét đoán kỹ càng những lời của Ngài giải thích trong đây để bài trừ sự “mê tín ngông cuồng” hãy “làm cho tư tưởng thiện hòa của Đạo Phật” được lan rộng khắp bàng nhân bá tánh.

CHÚ THÍCH :

        NGÔNG CUỒNG: Nói hay làm một cách quá đáng trong lúc bồng bột, nóng nảy quá dại dột.

        VÔ Ý THỨC: Không có ý thức, không chịu suy xét, cân nhắc cẩn thận.

        NHÂN QUẢ: (Xem chú thích chữ “Luật Nhân Quả” , tr. 19-20 )   

        TOÀN THIỆN: hoàn toàn tốt lành.  

        ĐẠO LÝ: Lý lẽ của Đạo hay cái nghĩa lý đương nhiên hợp với lẽ phải mà ai cũng công nhận.

        Học Đạo lý như đờn trúng điệu,

          Hòa bản rồi thì cứ làm theo.( ĐT)

        THỌ LÃNH: Vâng chịu, nhận lấy.

        TƯỜNG TẬN: Rành rẽ, cặn kẽ rõ ràng.

        TẤN HÓA: Cũng gọi là tiến hóa. Có nghĩa bỏ cái cũ, đổi lấy cái mới cao hơn, hay hơn, tốt lành hơn.

        BÀI TRỪ: Trừ bỏ đi, dẹp cho tan hết.

        MÊ TÍN: Tin tượng mù quáng, nhắm mắt tin càn, thiếu xét suy cẩn thận.    

        THIỆN HÒA: Hoà hợp tốt lành.

 

 3.- TANG LỄ

(SGTVTB 2004, tr. 204- 205)

 CHÁNH VĂN

          Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:

          Bây giờ chúng ta đã quy-y đầu Phật, thì phải do sự thành-tâm cầu nguyện, và đem sức khấn vái của anh chị em trong Đạo cầu nguyện cho vong-linh người chết được siêu-sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy-tiền vàng-bạc, xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì người ta nhận-định rằng xác thịt là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ đem chôn cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành-tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu-thuận nhơn-nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện, rồi im lặng đi chôn.

          Việc cúng kiếng ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy trong những ngày kỷ niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương-đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản-tiện, ít lãng-phí cứ làm.

 LƯỢC GIẢI :

         MỤC TANG LỄ gồm có các phần:

        1.-TỤC ĐỂ TANG:

        Về tang lễ, Đức Thầy dạy: Nếu trong nhà có người từ trần thì tục để tang được giữ theo cổ lệ. Tức là phong tục từ xưa do Tổ tiên của đất nước ta truyền lại, như : may y phục tang, khăn tang (vải trắng), lập bàn thờ tang, tổ chức lễ an táng; ba ngày cũng cúng khai mộ, cầu siêu 7 thất, làm tuần 100 ngày (bá nhựt), làm tuần giáp năm, làm tuần mãn khó (xả tang sau 24 tháng) và hàng năm cúng giỗ (kỷ niệm). (Làm tuần 7 thất là tục lệ từ xưa nhưng xét đây là tục lệ chân chánh nên chúng ta còn giữ.)

        2.-NHỮNG ĐIỀU NÊN LÀM:

        Theo ý Đức Thầy bảo: bây giờ chúng ta đã qui y đầu Phật thì trong cuộc an táng nên thi hành lễ cầu siêu trước giờ động quan. Nơi đây gồm có những bà con, thân bằng quyến thuộc và nhờ đồng đạo xa gần, thành tâm cầu nguyện cho hương linh người quá vãng được siêu thoát. Rồi mỗi người chấp nhang vào ngực hộ niệm đưa linh cữu đến nơi an táng.

        3.-CÁC ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM:

        Căn cứ theo đây thì Đức Thầy không cho rước các ông thầy nhưn bông, làm đám; không đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, xá phướn lầu kho; không dùng đờn kèn trống phách, chiêng đẩu…; không cho đạo tỳ hò hét vang rân; ngày khai mộ không nên bắt gà kéo chung quanh mộ, làm cầu thang giả hay trồng mía lau; không dùng 5 ống tre gạo muối cắm theo năm hướng. Chỉ dùng nhang đèn, bông, nước, bánh trái mà cúng thôi. Vì các sự kiện trên đều là dị đoan mê tín.

        Đức Thầy đã nhiều lần mách bảo:

        “Vàng bạc bởi tay khách trú làm,

          Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.

          Giấy quần, giấy áo không nên đốt,

          Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”.

        4.-NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ CHẾT VÀ HIẾU SỰ:

        Xét rằng con người có sanh tất có tử, có hình thành tất có hoại diệt, nên khi có người chết hãy đem chôn xác thể, đừng để hôi thúi mất vệ sinh chung.

        Còn sự báo hiếu là mình lo nuôi dưỡng ông bà cha mẹ lúc sanh tiền và lo tu hành, tác phước thiện duyên, để hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ đặng siêu thoát. Chẳng nên liệm vàng bạc theo, hoặc sát sanh hại vật mà cúng tế. Đức Thầy hằng cảnh giác:

                Của tiền chớ có bỏ theo,

        Chết rồi tế lễ bò heo làm gì ?

                Nếu ai biết chữ tu trì,

           Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.

                Không làm để ở lung lăng

          Chưởi cha mắng mẹ lăng xăng thiếu gì”.

        5.-VIỆC TIẾP ĐÃI THÔN XÓM:

        Theo cổ lệ dân tộc Việt Nam xưa nay, không phân biệt tôn giáo hay giai cấp nào, hễ một gia đình có việc “Hôn, quan, tang, tế” thì các gia đình khác đều đến tiếp giúp qua lại với nhau.“Nhứt gia hữu sự bá gia ưu”.(Tục ngữ), cho nên trong đám tang tất phải có chòm xóm. Quan khách hoặc chánh quyền, tôn giáo bạn đến tham dự, kể như là những người ân nghĩa. Muốn đáp lại, Đức Thầy dạy: không phải đợi mâm cao cỗ đầy, mà nên đáp từ theo lễ nghĩa:“Tiếng chào cao hơn cỗ”(Tục ngữ). Còn việc tiếp đãi thì xét ra điều nào giản tiện, ít lãng phí cứ làm (ĐT) . Ngài có dặn rõ:

                “Bỏ bớt rình rang một khi,

        Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.

                Là lời truyền giáo của Thầy,

        Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.

                Còn mình muốn đãi làng thôn,

        Thì là tùy ý đáp ngôn cho người”.

 

CHÚ THÍCH :

        CỔ LỆ: Lệ xưa, tục lệ từ xưa lưu truyền lại.

        THÀNH TÂM: Lòng chí thành chí thật. Cổ Đức từng bảo:“Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai”.( Ý nói sức mạnh sự thành tâm khẩn thiết hướng đến đâu có thể chẻ núi phá vàng đến đó). Cho nên Đức Thầy hằng dạy:

Thứ bảy Chánh niệm vậy thì,

Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.

        CÕI THỌ: Cõi sống lâu. Đây chỉ cho cõi Cực Lạc.

        THẦY DƯNG BÔNG: Cũng gọi thầy Nhưn bông. Tức là những người ăn mặc như nhà sư, nhưng chỉ chuyên đi làm đám, cầu siêu và tụng kinh mướn để lấy tiền, làm hoen ố Đạo Phật. Đức Thầy bảo:

         Kinh với sám tụng nghe thảnh thót,

          Lũ nhưn bông tập luyện đã rành.

          Đẩu với đờn kèn trống nhịp sanh,

          Làm ăn rập đặng đòi cao giá”.

        GIẤY TIỀN VÀNG BẠC: Tờ giấy trắng họ in hình đồng tiền kẽm hồi xưa trong đó. Loại khác thì họ phết một khúc màu vàng, một khúc màu bạc, rồi gọi là giấy tiền vàng bạc.

        Từ lâu, có vô số người còn theo tục lệ dùng giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo và xá phướn lầu kho để đốt cho người chết mang theo hoặc gởi xuống âm phủ. Họ mê tín rằng làm như vậy người chết xài được. Chớ họ có biết đâu những sự vật ấy là do bọn Vương Luân đời Đường (Trung Hoa) chế ra để phỉnh gạt người đời mà trục lợi. Đến bây giờ các thầy nhưn bông cũng còn tiếp tục làm theo, nên Đức Thầy mới khuyên:

        Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,

           Chớ có đốt tốn tiền vô lý”.

        XÁ PHƯỚN LẦU KHO: Là hình xá hạt, xá ngựa, lầu kho, phướn sớ làm toàn bằng giấy và cỏ sậy nho nhỏ, do các thầy nhưn bông làm ra, để khi có lễ làm tuần, cầu siêu thì đem đốt. Họ mị dối với tang chủ rằng đốt đồ đó người chết ở âm phủ xài được và xá hạt xá ngựa sẽ mang phướn sớ ấy đến Trời Phật. Thật là giả dối lạ lùng. Đức Thầy thường giác tỉnh mọi người:

         “Xá với phướn là trò kỳ quái,

          Làm trai đàn che miệng thế gian.

          Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,

          Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.

          Thương bá tánh vì không rõ hiểu,

          Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.

          Thấy lạc lầm đây động lòng son,

          Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ”.

        HIẾU THUẬN: Tôn kính, bảo dưỡng và thảo thuận vâng lời cha mẹ để làm tròn bổn phận con người.

        KỶ NIỆM: Ghi nhớ, tưởng nhớ. Đồng nghĩa với ngày cúng giỗ hay ngày kỵ cơm ông bà.

        HƯƠNG ĐẢNG: Thôn xóm, chỉ chung những người ở chung quanh.

        LÃNG PHÍ: Xài hao phí tiền của vô ích.

 

 4.- CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT.

(SGTVTB 2004, tr.204-205)

 CHÁNH VĂN

          Mỗi người đứng trước bàn  Phật niệm: “Nam-mô Bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT” (ba lần) và “Nam-mô A-DI-ĐÀ PHẬT” (ba lần).

          Vái: “PHẬT TỔ, PHẬT THẦY, nay mình thành-tâm cầu nguyện cho tên … (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-Lạc ! ” Trong lúc ở nhà hay lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ-chức sắp hàng chấp tay niệm:

           “Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp-dẫn vong-linh A-DI-ĐÀ PHẬT” (nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc:  “Tiếp-dẫn đạo-sư A-DI-ĐÀ PHẬT”).

            NÊN LƯU Ý: Tang gia đừng nên khóc lóc làm trở ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.

 LƯỢC GIẢI :

        Trong mục “Cầu Nguyện Cho Người Chết” gồm có ba phần:

        1-ĐẶT BÀN CẦU NGUYỆN:

        Đức Thầy dạy:“Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời cầu nguyện rồi im lặng đi chôn. Nghĩa là nếu nhà sân rộng thì đặt bàn ngoài sân. Còn gặp nhà không có sân thì đặt ngay giữa gần mái nhà trước cũng được. Trên bàn chỉ để một lư hương, 3 ly nước lạnh, 1 bình bông hoặc 3 chung bông. Tuyệt đối không nên để bánh trái hay món gì nữa hết.

        2-CÁCH ĐỌC BÀI NGUYỆN:

        Mấy lúc gần đây trong Đạo chúng ta có nhiều vị đọc bài nguyện cho người chết, hoặc thêm hoặc bớt không đồng nhất, là vì không chịu nhận xét chính xác ý văn của Đức Thầy. Để tránh sự bất nhất ấy, chúng ta nên nghiên cứu kỹ lại. Những chữ ngoài bên ngoặc kép (“) thì không nên đọc, như câu “Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm” hoặc chữ “Vái” hoặc các chữ trong ngoặc đơn như “(ba lần)” …cũng không nên đọc. Vì những chữ ấy đều là lời chỉ dẫn và cũng đừng thêm vào tuổi tác hay ngày giờ người chết. Bởi những ý nầy chủ nhà hoặc người xướng ngôn đã tuyên bố lý do trong lời nói đầu.

        Xin nhắc lại vào khoảng năm 1965, Ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương, có soạn thảo chương trình tu học Giáo lý sơ cấp. Trong môn Nghi thức có bài “Cầu Nguyện Cho Người Chết”, Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương có mở phiên họp bàn thảo về các chữ trong bài nguyện…Bàn thảo xong tất cả đều đồng ý bỏ những lời chỉ dẫn ra không đọc.

        Trước các chữ “Phật Tổ, Phật Thầy” cần thêm vào hai chữ “Nam Mô”, bởi hai lý do: – Một là vì đọc chữ Phật Tổ Phật Thầy trơn, nghe hình như thiếu khiêm cung. Điểm hai là vì bên bài nguyện Qui y, Đức Thầy có viết “Nam Mô Phật Tổ Phật Thầy”, thì bên nầy mình dùng chắc không sao, chớ không phải dám nghĩ Đức Thầy viết thiếu.

        Còn câu: “Nay mình thành tâm..” thì đồng ý thay chữ “mình” bằng chữ “con”, bởi lẽ chữ “mình” là ý chỉ người cầu nguyện. Nếu cầu nguyện cá nhân thì đọc “Nay con thành tâm…”còn xướng ngôn tập thể, thì đọc “Nay chúng con thành tâm…” Đến chữ “tên” cũng thay bằng  chữ Ông hay ( kèm theo họ tên), nếu người chết nhỏ tuổi quá thì gọi hoặc Em, Cháu gì cũng được.

        Sau khi bàn thảo kỹ lưỡng, Ban Phổ Thông đều đồng ý đưa ra một bài nguyện mẫu, đã có in trong Tài liệu sơ cấp và toàn thể trong Đạo đều áp dụng từ đó đến nay. Chúng tôi xin chép lại bài Nguyện đó sau đây:

        Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

          Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

          Nam mô Phật Tổ Phật Thầy, nay con/chúng con thành tâm cầu nguyện cho (ông/ bà + họ và tên) nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong linh được thoát chốn mê đồ vãng sanh miền Cực Lạc”.

          Lưu ý:

        – Các chữ trong ngoặc đơn chỉ dùng để chỉ dẫn nên không đọc) .

        – Vừa niệm Phật vừa xá ba xá, kế đó góp hết nhang cắm lên bàn rồi lạy bốn lạy).

        – Đức Thầy không  dạy cố định là cầu nguyện 1 lần hay 3 lần; tùy theo thời gian và chương trình cuộc lễ rộng hẹp, dài ngắn…mà Ban tổ chức linh động cho cầu nguyện 1 hay 3 lần tùy ý.)

        Nghiên cứu qua lời dạy của Đức Thầy thì bài “Tây Phương Cực Lạc Thế Giới tam thập lục vạn ức,…” lúc cầu nguyện không nên đọc, mà chỉ dùng khi người bịnh vừa tắt thở. Lúc đó người hộ niệm hoặc đứng hay ngồi chung quanh vẫn tiếp tục niệm…Và niệm lúc đi theo bàn Phật ra tới huyệt.

        Sở dĩ chúng tôi đưa nhận xét và biên soạn ra đây là vì muốn khi cầu nguyện cho người chết, trong Đạo chúng ta không còn chênh lệch nhau quá. Chớ thật ra, cầu nguyện có được kết quả là do chỗ thành tâm, chớ không phải do hình thức văn tự:“Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”.( ĐT)

        3-CÁCH HỘ NIỆM:

        Hộ niệm có 2 giai đoạn:

        a) Lúc bệnh nhơn chưa tắt thở: Theo cổ lệ Phật giáo, người tu Pháp Tịnh Độ, nếu có người bịnh sắp lâm chung đều tổ chức hộ niệm. Hiện giờ trong PGHH chúng ta vẫn áp dụng, vì đây là chánh lý.

        Người sắp chết có những trạng thái không giống nhau: có người bấn loạn tâm thần, đau nhức rên than, đập mình lăn lộn, thở không muốn kịp; có người lại nằm mê man, thở dài và nhẹ lần cho đến khi chấm dứt…Cho nên rất cần có người hộ niệm.

        Lúc đó, con cháu và đồng đạo ngồi hoặc đứng chung quanh, chấp tay vào ngực niệm liên tục 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, giúp cho bệnh nhơn nghe và niệm theo, hoặc nhớ tưởng từ tiếng hầu giữ được chánh niệm, hướng về Đức Phật Đức Thầy. Dầu người bịnh có nằm mê hay cứng hàm không niệm được, hoặc thần thức chập chờn sắp rời khỏi xác, cũng nghe được tiếng niệm Phật mà hướng về Đức A Di Đà và Cực Lạc quốc…Nên nhớ tiếng niệm Phật phải trầm đều, nhưng rõ ràng. Chớ không nên niệm bổng và lớn hay lẹ quá, vì người bịnh đang mệt, nghe niệm theo không kịp.

        b) Khi người bịnh tắt thở: Lúc người bịnh sắp tắt thở, những người không hộ niệm nên lên nhang đèn các bàn thờ và quì sắp hang thành tâm cầu nguyện (3 lần), rồi cũng tiếp tục hộ niệm, đến khi người bệnh tắt thở thì tất cả xoay qua niệm câu “Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới tam thập lục vạn ức,…” Cứ thay phiên niệm liên tục.

        4- CÁCH CẦU NGUYỆN THỐNG NHỨT:

        Theo thông lệ, khi tẩn liệm người chết xong, những người đến dự đám tang đều có thể cầu nguyện và lễ bái cá nhân. Nhưng khi gần giờ di quan thì có tổ chức cầu nguyện thống nhứt, một lần 3 lượt, hoặc một lần 1 lượt là tùy theo sự sắp đặt của Ban tổ chức. (Lưu ý: người phát hương phải dè dặt cẩn thận, không nên trao hết cho mỗi người có tánh cách ép buộc, mà ai xin nhận mới trao. Nhứt là đối với quan khách, chánh quyền và những người không có Đạo.) Cầu nguyện thống nhứt xong, nếu có điếu văn, cảm tạ, hoặc cảm tưởng, nên cho đọc trong giờ nầy, có đầy đủ người dự đám. Khi ra đến phần mộ nên cầu nguyện thống nhứt 1 lần 1 lượt thôi.

        5- HÌNH THỨC ĐƯA LINH CỮU RA HUYỆT:

        Tới giờ di quan, Ban tổ chức cho khiêng bàn Phật đi trước. Kế đó là một số người hộ niệm có mặc áo lễ, rồi các tràng hoa (nếu có). Tiếp theo là vãng lỵ, bàn vong và linh cữu. Tang gia và thân quyến đi khít linh cữu. Còn những người dư ra đều đi tiếp theo đó. Mỗi người đưa đám đều cầm 1 cây hương và đọc bài “Nam Mô Tây Phương Cực lạc Thế giới tam thập lục vạn ức,…”(hộ niệm).Tuyệt đối là không nên nói chuyện ngoài hoặc khóc kể, như Đức Thầy đã cho biết vì thế sẽ “…trở ngại sự siêu thoát anh linh của người chết”.

        (Hộ niệm lớn tiếng hay niệm thầm là tùy nơi, tùy người, nhưng nếu niệm lớn thì phải nương theo cho ăn rập, đừng niệm lỏi chỏi.)

 

 CHÚ THÍCH :

          NAM MÔ: Phiên âm của Phạn ngữ Namah. Tàu dịch là qui mạng và cứu ngã (tiếng dùng cầu khẩn), tức là mình chịu qui phục với Đức Phật…và cầu Ngài cứu độ mình. Nam mô cũng có nghĩa qui y:“Hai chữ Nam mô ấy lẽ hằng”.( ĐT)

        BỔN SƯ: Ông thầy căn bản (gốc). Thầy cả ba giới, bốn loài. Đây chỉ cho Đức Thích Ca là đấng sáng lập Đạo Phật đầu tiên.

        THÍCH CA: Phiên âm của Phạn ngữ Sakya họ của Phật, dịch là Năng nhơn. Nghĩa là người có năng lực từ bi rộng lớn, thương xót và cứu độ vạn loại chúng sanh.

        MÂU NI: Phiên âm  Phạn ngữ Mouni, dịch là Tịnh mặc, có nghĩa là trong sáng lặng lẽ; tuy làm các hạnh lành, giúp thế độ đời mà lòng vẫn an nhiên, trong sạch, không xao động thiên chấp.

        PHẬT: Đấng hoàn toàn giác ngộ, toàn thiện, toàn mỹ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.

        Tóm lại, câu “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” nghĩa là cả tam giới đều tôn xưng công đức siêu thắng của Đức Thích Ca Mâu Ni.

        A DI ĐÀ PHẬT: (Phiên âm Phạn ngữ Amitabhâ), dịch là “Vô Lượng Thọ Phật”, tức là Ngài thọ mạng dài dặt vô lượng vô biên triệu ức kiếp, và “Vô Lượng Quang Phật” tức là hào quang của Ngài sáng vô cùng chiếu khắp mười phương, không bị sự vật nào ngăn che.

        A Di Đà Phật là vị giáo chủ  cõi Tây phương Cực Lạc, có nguyện lực tiếp dẫn chúng sanh 10 phương vãng sanh về cảnh giới của Ngài, nếu ai biết niệm Phật, làm lành và có đủ Tín, Nguyện, Hạnh. (Xem thêm chú thích tại  Q.Thượng, Tập 1/3, tr. 136-138).

        PHẬT TỔ: Tức Đức Phật Thích Ca (Xem thêm : Sĩ Đạt Ta, Q. Thượng, Tập 3/3, tr.233-234).

        PHẬT THẦY: Xem chú thích chữ Đức Phật Thầy Tây An, tr. 21.

        TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI: Thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà ở về hướng Tây, đối với cõi Ta bà chúng ta. Kinh Di Đà, Đức Thích Ca bảo:

        “Cách đây mười muôn ức cõi Phật về hướng Tây có cõi Cực Lạc, do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ và Ngài đang thuyết pháp độ sanh tại đó”.

        TAM THẬP LỤC VẠN ỨC: Ba mươi sáu vạn ức.

        NHỨT THẬP NHỨT VẠN: Mười một vạn.

        CỬU THIÊN NGŨ BÁ: Chín ngàn năm trăm.

        Đọc chung lại là Ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn, chín ngàn năm trăm. Theo Phật Học từ điển, có thể tạm viết con số ấy như vầy 36.000.119.500, nhưng nhà nghiên cứu Kinh điển nên lưu ý không nên chấp văn tự. Vì con số nầy là số tượng trưng, chỉ cho con số vô lượng, là vì chư Phật ở cõi Cực Lạc không một ai có thể đếm hết con số bởi công đức và nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Nếu chúng ta hiểu bằng văn tự là vẫn thiếu. Do đó, Đức Thầy dạy niệm nguyện câu nầy là có dụng ý: dạy chúng ta nguyện hết chư Phật ở cõi Cực Lạc, không sót một vị nào.

        ĐỒNG DANH ĐỒNG HIỆU ĐẠI TỪ ĐẠI BI: Bởi vị Phật nào cũng chứng đắc “Tứ vô lượng tâm” (Từ, Bi, Hỉ, Xả) và hoàn toàn giác ngộ nên nói đến đại từ, đại bi thì Phật nào cũng cảm thông tất cả, mới gọi là “đồng danh đồng hiệu”.

        TIẾP DẪN: Rước đưa về cõi Phật. Đức Thầy có câu:“Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.

        Tóm lại bài:“Tây Phương Cực Lạc…” theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể là Đức Thầy viết cho tín đồ trì niệm là để thay cho bài chú Vãng sanh trong kinh Phật thời xưa.

        Đại ý là chúng ta cầu nguyện Đức Phật A Di Đà và hầu hết chư Phật ở cõi Cực Lạc tiếp dẫn linh hồn người chết hoặc tất cả chúng sanh đều được siêu sanh về cõi Tây phương Cực Lạc.

        (Theo lời ông Nguyễn Chi Diệp kể lại: Vào năm 1939, lúc Đức Thầy còn ở Tổ Đình Hòa Hảo, một hôm ông và một số tín đồ có mặt tại đó, Đức Thầy kêu hỏi:

        -Trong các ông có ai thuộc bài chú Vãng sanh trong kinh Phật từ trước không ?

        Có một ông lão đứng lên nói: Bạch Thầy ! Tôi còn nhớ. – Đức Thầy bảo: Đọc thử nghe ! Ông lão liền đọc: “Nam mô A Di Đa bà dạ…”. Đọc xong, ông ngồi xuống, bị sai ít chữ.

        Đức Thầy nói:

        – Bài chú nầy phiên âm của Phạn ngữ, học lâu thuộc và không biết nghĩa, nên đọc bị sai chữ. Vậy để tôi đọc bài chú Vãng Sanh khác cho mấy ông nghe. Nói rồi Ngài đọc lên:“Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới…”

        Đọc xong, Ngài giải thích:

        – Bài nầy dùng vào 3 việc:

        1-Dùng niệm trong giờ niệm Phật, hoặc đi đứng nằm ngồi. Nó có ý nghĩa như câu lục tự Di Đà, nhưng có ý vị tha (cầu cho tất cả chúng sanh). Còn 6 chữ Di Đà có ý vị kỷ (chỉ niệm cầu cho mình). Song 2 câu nầy đều niệm hết.

        2-Dùng trong lúc hộ niệm cho người chết từ lúc vừa tắt thở đến đưa đám tang ra tới huyệt.

        3-Là khi thấy bất cứ người hay các sanh vật chết, không cần quen lạ, đều hướng tâm niệm thầm cho họ. Nhứt là trong mọi sự sinh hoạt và đi đứng của Cư sĩ tại gia như chúng ta hiện giờ, không khỏi va chạm làm đau đớn hoặc thiệt hại đến sanh mạng của các sanh vật (cả bốn loài: noãn, thai, thấp, hóa) như: cày ruộng cuốc đất, nấu ăn, uống nước.v.v…Tuy là nghiệp sát sanh vô tình, song ta cũng phải mắc nghiệp nợ đó. Cho nên giờ phút nào chúng ta cũng phải niệm bài chú nầy, hoặc niệm Phật liên tục, để vừa biết ơn và thương xót tất cả:“Tu biết thương vốn thiệt chay trường” (đó là tâm chay); “Chay được tánh chay tâm mới qúy (ĐT). Cũng vừa cầu tất cả chúng sanh được siêu sanh Tịnh Độ và nguyện tu hành đắc đạo để độ các linh hồn đó. Ấy là chúng ta tự đổi cái nghiệp nợ oán thù ra cái ân và kết duyên lành với họ. Sau nầy nếu tu đắc Đạo trước sẽ độ được họ, bằng họ đắc quả trước cũng độ được ta.

        Đức Thầy giải thích xong, mọi người lấy giấy viết, nhờ Ngài đọc lại, đặng ghi chép học. Nhưng mãi đến năm 1945 Ngài mới viết vào Quyển 6 nầy. 

 

 5.- HÔN NHƠN

(SGTVTB 2004, tr. 205)

 CHÁNH VĂN

          Bổn phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng-đáng bằng sự quan-sát tường-tận về đức-tánh đôi trai gái. Không nên ép-uổng con mình quá đáng, vì như thế làm cho khốn-khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự-do mà sự thiếu  kinh-nghiệm làm cho đời chúng phải hư-hỏng.

          Nên bỏ tục-lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ-vật. Thông-gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc lễ linh-đình tốn kém nhiều tiền làm cho trở nên nghèo khổ.

 

 LƯỢC GIẢI :

        Trong Đạo PGHH chúng ta tu với hình thức Tại gia Cư sĩ, tuy cũng có một số người lập chí tu độc thân, nhưng chỉ một phần ít, còn hầu hết là có gia đình. Cho nên Đức Thầy mới đề cập đến việc Hôn nhơn cho con cháu.

        1- Theo Đức Thầy dạy: trước nhất, là Đạo làm cha mẹ, có bổn phận định đôi gả bạn cho con mình khi đúng tuổi. Song nếu con bằng lòng mới lo, chớ không nên ép. Việc nầy có hai trường hợp:

        – Một là đứa con muốn ở độc thân để tu hầu sớm ra khỏi vòng sanh tử mà mình ép nó lập gia đình là tội nghiệp. Tuy nhiên, mình phải nhận xét trình độ, khả năng và ý chí của con, nó tu cách đó được không ?

        – Hai là vì ham chỗ giàu sang, quyền tước mà ép con phải ưng chịu chỗ đó thì điều nầy lại càng không nên làm.

        2- Thứ nhì, không nên để con tự do quá trớn, vì trong lúc nó còn trẻ, chưa kinh nghiệm việc đời là bao, nên dễ bị lầm lạc. Cũng có nhiều gia đình học theo thời nay, cho con mình tự do làm quen, tìm hiểu nhau trước. Vấn đề nầy có lắm đôi trai gái bị lừa đảo nhau, hoặc yêu nhau trước mới cho cha mẹ hay. Việc lỡ ra, cha mẹ buồn tức không đồng ý, nên con thì đòi tự tử, còn cha mẹ thì tuyên bố từ con, vì nó “đặt cây cày trước con trâu”.

        3- Đức Thầy bảo: Hãy bỏ hẳn “Tục lệ thách giá đòi tiền”, hoặc đôi bên sui gia gây khó khăn với nhau. Nhứt là không nên bày tiệc lễ linh đình, sát sanh hại vật…Làm thế, chẳng những tốn kém cả hai bên, mà còn gây thêm nghiệp tội cho mình và con cháu về sau, đường tu cũng khó tiến mau tới đích.

        Là một tín đồ PGHH, chúng ta nên xử thế đúng theo lời chỉ giáo của Đức Thầy để xứng đáng là một gia đình gương mẫu, ngoan đạo.

 

CHÚ THÍCH :

        ĐỨC TÁNH: Đức hạnh tài năng và tánh nết con người.

        KINH NGHIỆM: Điều mình đã có thực nghiệm, có từng trải và nghe thấy rõ.

        TỤC LỆ: Thói quen từ trước lưu lại tới giờ.

        THÔNG GIA: Sui gia. Hai nhà làm sui với nhau.

 

6.- NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM.

(SGTVTB 2004, tr.205-209)

 CHÁNH VĂN

          UỐNG RƯỢU.- Phải cữ tuyệt; nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay-lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa phải tội lỗi.

          THUỐC PHIỆN.-  Phải cữ tuyệt; không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút muốn vào Đạo, phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm chế đặng.

          CỜ BẠC.- Phải cữ tuyệt; những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo, phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng.

          ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ .- Tất cả bổn-đạo nên cung-kính các tăng-sư tu hành chân-chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh-lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám …) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân-chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp-tục làm điều tà-mị, mình phải bài-trừ triệt-để và giảng giải cho quần-chúng cùng những tín-đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.

          ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN.- Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều).

          Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy báng.

          ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SANH .- Đối với những người theo tôn giáo khác, không nên động chạm đến cách-thức tu hành của họ. Nhứt là không ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta.

           Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn-nhịn họ.

          Đối với nhân-sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đôi đàng có thiện-cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng phải rán hết sức giúp-đỡ họ.

          ĐỂ TÓC.-  Tất cả bổn-đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc, vì đó thuộc về phong-tục chớ chẳng phải về tôn-giáo; nhưng sở-dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ-niệm cái phong-tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn-minh cặn-bã của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn-đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu-hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong-trào tiến-hoá của nước nhà, Thầy cho phép bổn-đạo tự-do cải-cách hầu hòa-hợp với lương dân cùng tôn-giáo khác.

          SỰ HỌC.- Sự học hành không làm trở ngại cho đạo-đức. Trái lại, nhờ nó mình được biết rõ-ràng giáo-lý cao-siêu của tôn-giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị-đoan mê-tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn-hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn …)

          Vậy, hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ … ) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng-rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa-học không cản trở sự tu-hành và nó giúp cho mình nghiên-cứu Phật Đạo một cách rành-rẽ.

 LƯỢC GIẢI :

        1.- UỐNG RƯỢU VÀ THUỐC PHIỆN:

        Trong khoản nầy có 2 vấn đề: Uống rượu và hút á phiện. Đức Thầy bảo phải cữ tuyệt. Cho đến người đã hút mà muốn vô Đạo, phải tự nguyện bỏ hút mới được vào và người trong Đạo mới chứng nhận. Chỉ khi nào có bịnh nặng, thầy thuốc bảo phải để vô chút ít cho hợp với các vị thuốc khác, mới có thể châm chế.

        2.- CỜ BẠC:

        Cờ bạc có nhiều dạng: Các loại bài, me, đề, tài xỉu và các loại đổ hột, đá gà, đánh cờ, đánh cá.v.v…Bất cứ chơi loại nào có ăn thua bằng tiền bạc, sát phạt lẫn nhau đều gọi là cờ bạc và phải cữ tuyệt. Đến như đánh tiêu khiển, phạt uống nước, uống rượu cũng không nên chơi:“Phàm hí vô ích chớ chơi” vì nó sẽ quen tánh đi, và mất thời giờ. Đức Giáo Chủ thường giác tỉnh:

        “Cuộc trần ôi quá khổ !

          Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ.

          Biết bao người vì nó phải bơ vơ,

          Sự nghiệp hết gia đình tan nát,

          Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát.

          Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân,

           Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,

          Thân trí cực nợ lần khân chẳng dứt.

           Chi cho bằng:

          Qui y thì khá làm y,

        Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

        3.-  a) ĐỐI VỚI CÁC TĂNG SƯ:

        Với các Tăng sư đã có trong Đạo Phật, không luận tông phái nào, nếu ai tu hành chơn chánh và luận giải Đạo Pháp đúng chơn lý của Đạo Phật, chúng ta nên cung kính nghe theo. Còn những Sư tu giả dối: làm hay nói điều sai lạc chơn lý của Đạo thì chẳng những mình không nghe, còn nói lên cho mọi người hiểu biết để xa lánh.

              b) ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN:

        Trong đoạn nầy thì Đức Thầy dạy: những ngày sóc vọng, ngày vía chư Phật, mình muốn đi chùa lễ Phật dâng hoa cũng tốt. Chùa nào bị hư dột cũng được ủng hộ trùng tu cho kín đáo, có điều là không nên mua sắm hình tượng thêm cho nhiều.

        Khi thấy cách thờ phượng của các chùa không giống tông phái của mình thì không nên hủy báng mà phải luôn luôn tôn kính. Khi nào người trong Đạo mình thờ sai nghi thức, mới có ý kiến xây dựng.

        4.- ĐỐI VỚI TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SINH:

        Mỗi quốc gia đều có nhiều tôn giáo. Ấy gọi là tôn giáo bạn. Mục đích của tôn giáo nào cũng giống nhau, là dẫn dắt người đi đến chỗ tốt đẹp. Nhưng nghi thức thờ phượng và phương cách hành Đạo không giống nhau. Vậy chúng ta không nên kỳ thị, chê bai lẫn nhau và cũng không được ỷ mạnh thế, ỷ đông lấn hiếp họ. Nếu người ta có đối xử sai quấy với mình, mình nên nhẫn nhịn và luôn xử sự hài hòa thuận thảo với họ.

        Còn phần đối với các tầng lớp nhân sinh trong xã hội, Đức Thầy chủ trương “Đời đạo liên quan rạng chói ngờivà “Nhập thế cứu đời”. Cho nên, người tín đồ PGHH lúc nào cũng sống hòa hợp với mọi người, mọi giới. Hãy đặt tình thân yêu và tận tâm giúp đỡ:“Nếu thiệt người thì biết thương  người”.( ĐT)

        5.- ĐỂ TÓC: Điều nầy Đức Thầy nói tách bạch, nên xin miễn lược giải.

        6.- SỰ HỌC: Từ trước có nhiều người hiểu muốn tu chẳng cần học, vì tu cho tâm thanh tịnh thì trí huệ sáng. Hoặc cứ niệm 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, thì được vãng sanh về Cực Lạc. Thậm chí đến Kinh Giảng giáo lý của Đạo cũng không cần học, nói gì đến sự học văn hóa, khoa học. Cho nên Đức Thầy mới quả quyết:

        “Sự học hành không làm trở ngại cho Đạo đức. Trái lại, nhờ nó mà mình được biết rõ ràng giáo lý cao siêu của Tôn giáo, nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị đoan mê tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn)…”

        Cho nên, Ngài ra lịnh cho các tín đồ:Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ…) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa học không cản trở sự tu hành và nó giúp cho mình nghiên cứu Phật Đạo một cách rành rẽ”.

 

CHÚ THÍCH :

        RƯỢU: Do nước cốt của gạo trắng hoặc nếp hay trái cây ủ với men làm ra. Trong men có các vị chua, cay, đắng, mặn, ngọt…Có thể dùng chút ít làm thuốc nhưng nếu ai uống nhiều sẽ bị say và ghiền, khó bỏ: tánh tình nóng nảy, mất trí khôn, sanh thêm tội lỗi. Trong người mang nhiều bệnh tật và chết yểu. Cổ Đức từng bảo:“Người ghiền rượu thường sanh 10 điều lỗi như sau:

        1-Sắc diện ra vẻ khác thường.

        2-Cử chỉ chẳng ra gì.

        3-Mắt thấy không tỏ.

        4-Hiện ra tuồng giận dữ.

        5-Phá hoại sản nghiệp không lấy gì nuôi sống.

        6-Hay sanh bệnh hoạn.

        7-Gây thêm sự kiện cáo.

        8-Danh xấu đồn khắp.

        9-Trí huệ hao kém.

        10-Chết bị đọa vào 3 đường ác.

        THUỐC PHIỆN: Cũng gọi là á-phiện. Do một thứ nhựa, lấy ở mủ cây thẩu nấu thành, đốt lên có mùi thơm, người ta dùng để hút. Trong thuốc phiện có chất làm cho người say nghiện, con người tiều tụy từ tinh thần lẫn thể xác, sự nghiệp tiêu tan. Vì thế, tất cả Tôn giáo đều cho thuốc phiện là một trong tứ đổ tường (bốn bức tường đổ). Đức Thầy từng bảo:

        Nào hút thuốc phiện hội ve chai,

           Nào trùm đĩ ma cô nghề hút máu”.

        CHÂM CHẾ: Làm cho bớt tội phần nào.

        CHÁNH LÝ: Lẽ phải, lý lẽ đứng đắn, ngay thật chân chánh.

        TÀ MỊ: Gian dối không chánh đáng.

        NGÀY VÍA: Ngày kỷ niệm của chư Phật. Ví dụ: Vía Đức Thích Ca thành Đạo hay vía Phật Di Đà.v.v…

        TÔN GIÁO: Xem lại chú thích tại tr. 9.

        NHẬN NHỊN: Xem lại chú thích tại tr. 79.

        THIỆN CẢM: Cảm tình tốt lành.

 

                                         7.- HỌAT ĐỘNG  HÀNG NGÀY:

THỂ DỤC – ĂN Ở – LÀM ĂN

(SGTVTB 2004, tr.208-209)

 CHÁNH VĂN

          THỂ DỤC.- Người trong bổn-đạo nam nữ bất-luận, phải giữ- gìn thân-thể cho khoẻ-mạnh. Như thế nên luyện- tập những môn thể-dục nào hợp với sức khoẻ nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khoẻ mạnh tinh-thần mới sáng suốt, như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một cách đắc-lực.

          ĂN Ở.- Kẻ tu-hành ăn uống phải có điều-độ. Tránh những món ngon, song nấu toàn đồ độc cho cơ-thể ăn vào sanh bịnh.

          Phải giữ-gìn thân-thể sạch-sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ-sinh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ bẩn, vì xác-thịt dơ dáy thì tinh-thần không thể mở-mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những kẻ trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất.

          CÁCH LÀM ĂN.- Cách làm ăn phải y như trong mục Bát Chánh đã dạy.

   – Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu, đầu cơ, bán rượu, bán thuốc phiện,..

   – Làm những nghề lương-thiện, không có lường gạt ai, bỏ những thói gian xảo.

 

LƯỢC GIẢI :

        Ba đề mục:“Thể dục, ăn ở, cách làm ăn”, chúng tôi xin miễn lược giải, song mỗi người nên nghiên cứu học hiểu cho tường tận để giữ gìn, ăn ở và sống cho đúng với tinh thần của người có Đạo…

 CHÚ THÍCH :

        PHONG TỤC: Thói quen trong cuộc sống hằng ngày từ xưa của ông cha ta truyền lại.

        VĂN MINH CẶN BÃ: Riêng chữ Văn minh là văn vẻ sáng sủa, nhưng ở đây có ghép thêm chữ Cặn bã là Đức Thầy muốn chỉ các nước Âu Tây càng văn minh vật chất để thỏa mãn dục vọng. Do đó, sự ăn mặc họ càng tiến tới hở hang bày dạng khêu gợi tình dục, khiến tánh tình trở nên gian dối xấu ác. Đức Thầy đã bảo:

        “Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa,

          Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,

           Học thói mới lăng loàn theo sở dục”.

        CẢI CÁCH: Thay đổi cách thức lề lối cho được tốt đẹp hơn.

        DỊ ĐOAN MÊ TÍN: Xem lại chú thích tại tr. 51,52.

        KHOA HỌC: Gồm các môn học: Toán, lý hoá, vạn vật, …giúp cho ta nhận thức mọi vấn đề có phương pháp thực tiễn, rõ ràng, chính xác, không còn tin chuyện huyễn hoặc.

        NGHIÊN CỨU: Tìm tòi tra cứu, nghiền mgẫm, so sánh để nhận ra mọi vấn đề đúng lý.

        THỂ DỤC: Phương cách luyện tập thân thể cho nở nang và thêm sức mạnh, cũng giúp cho tinh thần thêm sáng suốt, siêng năng.

        ĐẮC LỰC: Sức làm nổi được việc.

        VỆ SINH: Sạch sẽ để giữ gìn sức khỏe đời sống.

        TIẾP ĐỘ: Dẫn dắt và đưa đến nơi đến chốn.

        LƯỜNG CÂN TRÁO ĐẤU: Mua cân già, đổi bán cân non; mua gịa già đổi bán gịa non. Đức Thầy có câu:

        Việc bán buôn phải giữ ngang cân,

            Chớ tập tánh lận lường tráo đấu”.

 

 8. ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO

(SGTVTB 2004, tr.208-209)

 CHÁNH VĂN

          ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO.- Người nào muốn quy-y phải có hai người bổn-đạo cũ, có đức-hạnh tiến-cử và bảo-lãnh, đến Ban Trị-Sự trong làng cho người làm đầu biết và người làm đầu phải đọc hết thể-lệ về sự tu hành cho người quy-y nghe, hỏi coi có bằng lòng quy-y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng. Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ-tiên rằng: Ngày … tháng … con chịu quy-y theo Đạo. Sau đó, người làm đầu (Hội-Trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có Ban Trị-Sự, hai người bổn-đạo cũ phải dìu dắt người mới, rồi sau sẽ dẫn lên Ban Trị-Sự gần đó, không bắt-buộc thề-thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến-cử hay để bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật-lệ trong sự đạo-đức, dầu không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách- nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.

          Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu-dắt và ủng-hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành đúng theo giáo-lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng-hộ những kẻ gian-tà xảo-quyệt, làm các việc hung-ác ngông-cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy.

 

LƯỢC GIẢI :

        Mục “Điều Kiện Vào Đạo” cho thấy ai muốn tu đều phải có điều kiện, nhưng điều kiện ở đây rất tự do bình đẳng và giản dị công bằng, thực tiễn.

        – TỰ DO ở chỗ tự ý mỗi người muốn tu thì vào Đạo, không muốn thì thôi, chớ không nài ép một ai.

        “Tu không tu cũng không mời thỉnh,

           Mặc tình ai trọng kỉnh hay chê”.( ĐT)

        Và:  

        Tùy thiện tín hiểu ta giả thiệt,

           Làm hay không chẳng dám ép nài”.( ĐT)

        -Có điều là bằng lòng giữ theo “Tám điều răn cấm” của Đạo là được. Cũng chẳng bắt buộc phải thề thốt chi cả. Khi nào không muốn tu nữa thì chỉ cho Hội Trưởng Ban Trị Sự sở tại hay để bôi tên mình là đủ.

        -BÌNH ĐẲNG ở chỗ không phân biệt sang hèn, già trẻ, thông minh hay dốt nát hoặc tật nguyền hay giàu khó…tất cả đều tu được hết:

        Giàu sang nghèo khó cũng người,

           Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.( ĐT)

        Hoặc là:

        Đâu đâu bá tánh cũng con lành,

          Thầy dạy cho đều khắp chúng sanh”.( ĐT)

        -GIẢN DỊ ở chỗ “không bắt buộc thề thốt chi hết”; chỉ cần thưa với ông bà cha mẹ hay và cần người hướng dẫn đến người lớn trong Đạo ở xã biết để chứng kiến. Nhứt là không cần có lễ vật rườm rà, như Đức Giáo Chủ đã cho biết:

         Tới với Ta chớ đem đồ cúng,

          Chỉ đem theo hai chữ thành lòng.

          Chẳng có cần trà quả hương nồng,

          Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ.

          Kẻ xa xuôi có lòng ái mộ,

          Xem Kệ nầy tu tỉnh tại nhà.

          Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà,

          Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc”.

        -Vẫn biết chủ trương của Đạo Phật cũng như PGHH là từ bi và bình đẳng, song chư Phật bao giờ cũng dìu dắt những người thật tu và làm ăn chân chất, chớ không bao giờ ủng hộ những kẻ dối tu, hành động ngông cuồng hung ác. Lẽ công bằng thực tiễn đương nhiên là phải như vậy.

                                                  CHÚ THÍCH :

        TIẾN CỬ: Giới thiệu, kể rõ thành phần tài năng đức hạnh của người đó, để được cấp trên hiểu biết hoặc sử dụng.

        THỂ LỆ: Cách thức qui định.

        QUY Y: Xem lại chú thích tại tr. 18.

SỰ CÚNG LẠY CỦA NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA

      (SGTVTB 2004, tr. 210-213)

 

A-  BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ.

 CHÁNH VĂN

          Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán nguyện:

            “Cúi kính dưng hương trước Cửu-Huyền,

            Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng.

            Nay con tỉnh-ngộ quy-y Phật,

            Chí dốc tu hiền tạo phước-duyên”.

          Cấm hương, đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:

                    “Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông,

            Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn.

                    Rày con xin giữ Đạo hằng,

            Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài.

                    Nguyện làm cho đẹp mặt mày,

            Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên.

                    Mong nhờ Đức Cả bề trên,

            Độ con yên ổn vững bền cội tu”. (lạy 4 lạy)

 

 LƯỢC GIẢI :

          -BÀI DƯNG HƯƠNG: (Theo ông Lâm Thế  Xương cho biết: Lúc ông chép các bài nguyện tại Tổ Đình (1939), Đức Thầy mới viết bài dưng hương như vầy:“Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền, Cùng trên Thất Tổ chứng lòng thiềng…”.Nghĩa là chữ đầu của câu thứ nhì là chữ CÙNG chớ không phải chữ CẦU. Có lẽ sau nầy chép hoặc in lại nhiều lần nên trại ra chữ Cầu. Theo ông, thành ngữ 4 chữ Cửu Huyền Thất Tổ dính liền nhau, nên Đức Thầy viết câu trên có 2 chữ Cửu Huyền thì chuyển tiếp xuống câu dưới là “cùng Thất Tổ”. Chẳng lẽ cầu Thất Tổ mà không cần Cửu Huyền sao ? Chúng tôi ghi vào đây để sau nầy có dịp chúng ta cứu xét lại.)

        1-Dưng hương cầu Cửu Huyền Thất Tổ chứng minh:

        Con quì trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, thành tâm kính dâng nén hương, nguyện cầu ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp xin chứng dám tấm lòng thành thật của con.

        2-Nguyện hứa trước Cửu Huyền Thất Tổ:

        Hôm nay con thức tỉnh qui y Phật pháp, quyết chí lo tu hiền, làm lành lánh dữ để gây tạo phước duyên từ đây đến ngày kết quả.

 

        – BÀI NGUYỆN LẠY CỬU HUYỀN THÁT TỔ:

        Bài nầy gồm có 4 phần:

        1-Lo cúng lạy tu hành để đáp ơn sanh dưỡng (câu 1 và 2): Con cúi lạy Tổ tiên, Ông bà cha mẹ trong tộc họ để lo đền đáp công khó nhọc, sanh dưỡng cho con nên hình vóc từ trước tới giờ.

       2-Dốc tu theo Tôn chỉ để cầu Tông Tổ siêu sanh Cực Lạc (câu 3 và 4): Từ nay con luôn luôn phụng hành theo Tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” của Đức Thầy đã đề vạch và nguyện cầu Tông Tổ được siêu sanh Cực Lạc an tọa trên đài sen báu.

      3-Vừa tu cho đẹp mặt Tông môn, vừa cho mình thoát trần về Phật (câu 5 và 6): Phần con chí nguyện trau dồi tài đức để làm rạng rỡ Tông môn và quyết tu thoát khỏi bể trần thống khổ, hầu vãng sanh về Cực Lạc.

      4-Mong nhờ Cửu Huyền Thất Tổ gia hộ cho con bền chí tu hành đến ngày kết quả (câu 7 và 8): Cuối cùng con tha thiết mong cầu Cửu Huyền Thất Tổ ban ơn bố đức ủng hộ cho con được yên ổn thân tâm, kiên chí tu hành mãi mãi cho đến ngày thành quả.

 

CHÚ THÍCH :

        CỬU HUYỀN THẤT TỔ: Là thành ngữ chỉ chung cho Tổ Tiên ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ.

        CỬU HUYỀN: Theo Nho Giáo (Hán học) thì Cửu Huyền tức là Cửu tộc. Gồm có: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Kỷ, Tử, Tôn, Tằng, Huyền. Có nghĩa trên mình bốn bực là Ông Sơ, ông Cố, ông Nội, Cha, giữa là mình và dưới mình bốn bực là con, cháu, cháu chắt, cháu chít.

        Xưa, đời Hạ Võ có đúc 9 cái đỉnh bằng đồng để thờ Tổ Tiên tộc họ. Trào nhà Nguyễn, Việt Nam ta cũng có tạo ra Cửu đỉnh đặt tại nhà Thái Miếu, ý cũng để nhớ đến Tổ Tiên, nòi giống. Song nên nhớ là thờ lạy 4 bực trên, đã qua đời, còn cứu độ và liên đới trách nhiệm thì luôn cả 4 cấp dưới. (Dẫn theo ý Đức Thầy đã giải cho ông Huỳnh Hữu Phỉ nghe. Ông Phỉ giữ trang giấy ấy, đã ép vào giấy kiếng và giữ còn tới bây giờ. Cũng đã có nhiều anh em ép hoặc photo để kỷ niệm.)

        THẤT TỔ: Theo Phật Giáo (Phật học) thì Thất Tổ là “Tổ tông bảy đời”, do chữ “Thất Thế Phụ Mẫu” có nghĩa mỗi lần sanh ra xác thân đều có tổ tiên cha mẹ mà bảy lần như vậy gọi là “Tổ Tông bảy đời”. Theo phong tục ở Ấn Độ, con số 7 là số tượng trưng cho con số nhiều (vô lượng). Bởi từ vô thỉ tới giờ con người chết đi, sanh lại không biết bao nhiêu lần. Cho nên Thất Tồ là chỉ cho ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp tới giờ. Đức Thầy đã bảo:

        Ngày nào đắc được lục thông,

          Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.     

        Căn cứ hai lý giải trên, tựu trung là một thành ngữ, ghép hai từ ngữ Hán học “Cửu Huyền” và Phật học “Thất Tổ” lại thành một thành ngữ “Cửu Huyền Thất Tổ”. Ban sơ là tiếng cầu chúc nhau (chúc cầu Cửu Huyền Thất Tổ nội ngoại), sau thành thói quen, nên dùng làm thành ngữ chỉ chung cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp. Đức Thầy đã xác định:“Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp”. Và:

        “Đầu cúi lạy Cửu Huyền Thất Tổ,

           Ngõ đáp ơn báo bổ sanh thành”.

         LÒNG THIỀNG: Lòng thành.

        TỈNH NGỘ: Thức tỉnh và giác ngộ. Hiểu rõ những điều sai lầm từ trước mà khởi lòng tự giác tu hành theo Đạo lý. Đức Thầy từng kêu gọi:

        Tỉnh  ngộ từ đây người gặp chủ,

           Phủi trần tìm kiếm chữ Ma ha”.

        PHƯỚC DUYÊN: Phước đức và nhân duyên, (nghĩa của chữ phước điền) tức là làm những việc phước thiện để gây duyên lành về sau. Đức Thầy có câu:

                “Ông bà có sẵn của tiền,

           Lại thường làm ruộng phước duyên để dành”.

         SANH DƯỠNG: Cũng viết là sinh dưỡng, tức sanh ra và nuôi cho lớn khôn, do chữ “Cúc Dục”. Kinh thi của Thánh giáo có câu:“Phụ hề sanh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hạo nhiên võng cực”. (Cha sanh ta, mẹ đẻ ta, thương thay cha mẹ sanh ta khó nhọc, muốn đáp ơn sâu, thật ơn ấy như trời cao chẳng cùng).

        Còn Kinh Phật có giải mười điều ơn của cha mẹ như sau:

        1-Thập ngoạt hoài thai: Mười tháng cưu mang.

        2-Lâm sản thọ khổ: Sanh đẻ chịu khổ.

        3-Sanh tử vong ưu: Sanh được con mừng mà quên lo rầu.

        4-Yến khổ thổ cam: Uống đắng nhổ ngọt.

        5-Hồi can tựu thấp: Nhường chỗ khô, nằm chỗ ướt.

        6-Nhũ bộ dưỡng dục: Bú mớm và nuôi nấng.

        7-Tẩy trạc bất tịnh: Giặt rửa mọi điều dơ bẩn.

        8-Viễn hành ức niệm: Con đi xa thì cha mẹ nhớ tưởng.

        9-Vị tạo ác nghiệp: Vì con mà cha mẹ làm điều chẳng lành.

        10-Cứu cánh lân mẫn: Cha mẹ thương con không có cái thương nào bằng.

        Đức Thầy thường khuyên:

        Vẹn mười ơn mới đạo làm con,

            Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc”.

        DÀY CÔNG:Công phu nhiều lắm khó lường được.

        NHỌC NHẰN: Vất vả cực nhọc.

        ĐẠO HẰNG: Đạo thường xưa nay, tức mọi phép tắc mà người người đều tuân theo để ăn ở xử thế cho  phải lẽ, phải phép đúng với bổn phận con người; phân làm 5 mối thường hằng (ngũ thường) là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Chữ “Đạo hằng” ở đây còn có nghĩa Đức Thầy dạy tín đồ thường ngày đều thực hành đúng theo con đường Đạo mà mỗi người đã hứa nguyện với Cửu Huyền Thất Tổ như trong bài nguyện đã nói trên.

        PHẬT ĐÀI: Đài Phật ngự, đây chỉ cho đài sen báu ở cõi Cực Lạc.

        LIÊN ĐÀI: Đài sen, cũng có ý nghĩa như trên.

        ĐỨC CẢ: Đức lớn, tiếng tôn xưng và cậy nhờ bề trên. Đây chỉ cho Cửu Huyền Thất Tổ.

       CỘI TU: Gốc tu hành. Ý nói sự tu hành như trồng cây, ai bền tâm vun phân tưới nước thì cây ắt đơm bông kết quả tốt.

        Đức Thầy bảo:

        “Trồng cây lành vị quả thơm tho,

          Tuy không thấy mà sau chẳng mất”.

 

 B-  BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN PHẬT.

 CHÁNH VĂN

1- BÀI NGUYỆN QUI Y

Cầm hương xá 3 xá, quì xuống chắp tay đưa lên trán đọc bài Quy y:

        “Nam-mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (tam niệm)

          Nam-Mô Thập Phương Phật.

          Nam-Mô Thập Phương Pháp.

          Nam-Mô Thập Phương Tăng.

          “Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn-thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm-ứng chứng-minh, nay con nguyện cải-hối ăn-năn, làm lành lánh dữ, quy-y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo”.

         Cắm hương, lạy 4 lạy cũng được, hoặc cắm hương đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:(Bài Tây Phương Ngũ Nguyện bên dưới ).

 

LƯỢC GIẢI :

        Bài  Nguyện Qui Y trước Bàn Phật có hai phần:

        –PHẦN NHỨT: Mỗi người của chúng ta nguyện với vị Giáo chủ Đạo Phật. Kế tiếp là khắp mười phương chư Phật Pháp Tăng, rồi Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, Chư Quan Cựu Thần, Chư Vị Sơn Thần và Năm Non Bảy Núi chứng minh cho lời phát nguyện Qui y của chúng ta.

        –PHẦN NHÌ: Chúng ta tự quyết cải hối những việc sai lầm vừa qua và tự nguyện từ đây ngăn tránh các điều quấy ác và làm hết các việc tốt đẹp thiện lương. Nhứt tâm nương theo con đường Phật Đạo, tức là giáo pháp và giới luật do các Ngài chỉ dẫn để tu tiến cho đến ngày thành Đạo.

 
                                                    CHÚ THÍCH :

        NAM MÔ: Xem lại chú thích tại tr. 135.  

        TA BÀ: Phiên âm của Phạn ngữ Saha, dịch là Kham nhẫn hay Đại nhẫn. Bởi chúng sanh ở cõi nầy kham chịu mọi điều thống khổ, tức là cõi chúng ta đang ở. Đức Thầy từng bảo:

        Ta bà khổ, ta bà lắm khổ,

           Có bao người xét cho tột chỗ”.

        GIÁO CHỦ: Vị đầu tiên khai sáng Đạo Phật. Đây chỉ cho Đức Phật Thích Ca, bởi Ngài là Giáo chủ Đạo Phật trong cõi Ta bà. Cho nên gọi chung là Ta Bà Giáo chủ. Đức Thầy có câu:

                Nam Mô Thích Ca Như Lai,

           Ta bà giáo chủ xin Ngài chứng minh”.

        BỔN SƯ: Xem chú thích bài “Cầu nguyện cho người chết”,  tr. 135.

        MÂU NI: Xem chú thích tr. 135.

        PHẬT: Xem chú thích tr. 135.

        THẬP PHƯƠNG PHẬT, THẬP PHƯƠNG PHÁP, THẬP PHƯƠNG TĂNG: Mười phương thế giới đều có chúng sanh, tất có Phật giáo hóa, mà Phật muốn hóa độ chúng sanh phải dùng Kinh Pháp nên gọi là Thập phương Phật và Thập phương Pháp. Hễ có Phật có Pháp tất có Chư Tăng tức là các Đại đệ tử của Phật, nên gọi là Thập phương Tăng. Nói chung là 10 phương thế giới đều có Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Bài Qui y Đức Thầy dạy rộng như thế, Ngài đã từng bảo:

        “Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,

           Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát”.

        PHẬT TỔ: Xem chú thích bài “Cầu nguyện cho người chết”, tr.135.

        PHẬT THẦY: Xem chú thích, tr. 21.

       QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN: là Ngài Nguyễn Trung Trực. Ông sanh năm 1837 tại tỉnh Bình Định (Trung phần Việt Nam), trong một gia đình chài lưới ở cặp bờ biển. Con của Cụ Nguyễn trung Thăng. Cũng có thuyết nói tên Ông là Chơn hay Lịch (Quản Chơn, Quản Lịch), ở tỉnh Tân An (Nam phần) song vì bà Cụ, mẫu thân ông nói tiếng hơi cứng nên xác định quê ông ở Bình Định đúng hơn.

        Vì căm thù quân Pháp nên gia đình ông và số người đồng hương di cư vào Định Tường (Nam phần). Trong đoàn có Cụ Quản Cơ Lê Đình Vạn đứng ra chiêu tập nghĩa binh trên 200 người chực chờ đánh Pháp. Sau vì già bịnh Cụ Vạn giao binh quyền cho ông Nguyễn Trung Trực, từ đấy ông lập được nhiều chiến công oanh liệt như sau:

        1- Ngày mùng 10-9-1861, Thủy sư Đô Đốc Charner cho quân đổ bộ lên bờ sông Bảo Định. Chính Cụ Nguyễn điều động nghĩa binh tiêu diệt hơn 30 binh sĩ Pháp và tên chỉ huy Bondais bị hạ ngay tại chỗ.

        2- Ngày 22-6-1861 Tướng Paulin Vial tiến đánh Định Tường, bị Cụ Nguyễn dùng kế không thành đánh tướng Paulin trọng thương và quân Pháp chạy bán sống bán chết.

        3- Kế tiếp quân Pháp gom toàn lực bao vây đồn Thuộc Nhiêu. Cụ liền phân binh trong một đêm đánh triệt hạ 7 đồn binh của chúng.

        4- Ngày 11-12-1861 Ngài dùng hỏa công đánh đốt chiếc tàu Espérance tại vàm sông Nhựt Tảo. Ngọn lửa cháy ngất trời cả một khúc sông. Chính Cụ chém được đầu Trung Tá Parfait xách lên bờ cho dân chúng xem.

        5- Đêm 5-6-1866, Ngài tiến đánh đồn Kiên Giang (Rạch Giá) giết được 5 võ quan Pháp và 67 lính Tây, bắt sống 6 tên, đoạt được 100 khẩu súng và vô số đạn dược.

        Sau cùng bị số người theo Pháp bày mưu bắt mẹ Ngài và cả trăm đồng bào giam giữ; chúng buộc Ngài ra mặt mới trao trả. Bấy giờ Ngài thấy cuộc kháng Pháp không thể kéo dài thêm nữa. Vả lại cần cứu sống hằng trăm nạn nhân, nên Ngài giải tán nghĩa binh rồi tự trói mình ra nạp cho Pháp để chuộc mẹ và số đồng bào ra. Quân Pháp dùng đủ cách dụ hàng, nhưng không lay chuyển được lòng trung nghĩa của Ngài. Cho nên họ đem Ngài ra hành quyết vào ngày 28-8 năm Mậu Thìn (27-8-1868). Trước khi tử hình Ngài có làm bài thơ tuyệt mệnh, lời lẽ khí khái và thống thiết như sau:

         “Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,

        Yêu giang đởm khí hữu long tuyền.

        Anh hùng nhược ngộ vô dung địa,

        Báo hận thâm cừu bất đái thiên”. 

        Thi sĩ Đông Hồ dịch:

         “Theo việc binh nhung tự thuở trai,

        Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.

        Anh hùng gặp phải hồi không đất,

        Thù hận chan chan chẳng đội trời”.

        Sau khi vị quốc vong thân, Ngài được vua Tự Đức sắc tứ truy phong là “Quan Thượng Đẳng Đại Thần”. Hiện giờ đền thờ chánh của Ngài tại xã Vĩnh Thạnh Trung, tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá).

        (Về công nghiệp của Ngài, sau nầy Cụ Huỳnh Mẫn Đạt có viết hai câu đối:

        “Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,

         Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần”.

        Trong một bài thơ có đề cập đến Quan Thượng Đẳng Đại Thần do Đức Thầy sáng tác năm Canh Thìn (1940) với tựa đề “Lý lịch”.

        THƯỢNG thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu,

          ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.

          ĐẠI pháp vô vi là chơn lý,

          THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu”.

        Thẩm xét bài thơ trên thấy hàm dung bao ý nghĩa chứng minh rằng Ngài Nguyễn Trung Trực theo Đức Phật Thầy chuyển kiếp độ đời qua bốn chữ khoán thủ.

        CHƯ QUAN CỰU THẦN: Chư là chỉ số nhiều. Quan Cựu thần là các vị quan văn võ trung cang nghĩa khí, tận tâm bảo vệ tổ quốc. Đây chỉ cho các quan cựu thần, từ hồi lập quốc (Hùng Vương) tới giờ đã được ghi vào lịch sử. Đức Thầy bảo:

        “Dầu không siêu cũng đặng về Thần,

          Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”.

        CHƯ VỊ SƠN THẦN, CHƯ VỊ NĂM NON BẢY NÚI: Chỉ cho các vị thần có nhiệm vụ trong vùng Năm Non Bảy Núi, đã qui y Phật tu hành và theo Đức Thầy cứu dân độ thế trong thời nầy. Đức Thầy có câu:

        Chư sơn bảy núi đều qui tựu,

          Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày”.

        Và:  

        “Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,

          Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay”. 

        NĂM NON: Năm cái chỏm cao, tức năm cái Vồ trên núi, gồm có:

        1-Vồ Bò Hong: cao 716m, coi như đỉnh chót của núi Cấm, ở về hướng Tây (vì khi xưa người ta ít lui tới, giống bò hong sinh nở ở đây nhiều nên có tên ấy).

        2-Vồ Đầu: cao 584m, ở về hướng Tây Bắc (phải chăng vì là cái Vồ đầu tiên người ta gặp được khi lên núi do ngã chợ Thum Chưn).

        3-Vồ Bà: cao 579m, ở về hướng Nam (vì ở đây có điện thờ Bà Chúa Xứ) .

        4-Vồ Ông Bướm: cao 480m, ở về hướng Bắc (vì khi xưa có 2 đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An là ông Bướm và ông Vôi ẩn náu nơi đây tu hành đắc Đạo).

         5-Vồ Thiên Tuế: cao 514m, ở về hướng Đông,(vì nơi đây có mọc nhiều cây thiên tuế). 

        BẢY NÚI: Nghĩa của chữ Thất Sơn, tức bảy ngọn núi ở vùng tỉnh Châu Đốc, gần biên thùy Miên Việt gồm có:

        1-Anh Vũ Sơn: Núi Két cao 125m, thuộc xã Thới Sơn, quận Tịnh Biên (Châu Đốc). Vì trên chót núi nầy có mỏm đá giống hình mỏ chim két.

        2-Ngũ Hồ Sơn: Núi Dài Năm Giếng, gần núi Két, chưa rõ số thước.

        3-Thiên Cẩm Sơn: tức núi Gấm trời, cũng có tên núi Cấm. Cao 716m, dài 7.500m, ngang 6.800m, nằm giữa quận Tịnh Biên và Tri Tôn (Xem thêm chi tiết  tại tr. 106-107, Quyển Thượng Tập 1/3).

        4-Liên Hoa Sơn: núi Tượng, cao 115m, dài 600m. ngang 400m, thuộc xã Ba Chúc, quận Tri Tôn (Châu Đốc), vì núi nầy đứng xa nhìn lên đỉnh thầy giống hình con voi.

         5-Thủy Đài Sơn: núi Nước gần núi Tượng, cao 50m, cùng thôn với núí Tượng.

        6-Ngọa Long Sơn: Núi Dài, cao 580m, dài 8.000m, thuộc quận Tri Tôn (Châu Đốc). Vì núi nầy dài tới 8 cây số ngàn, giống con rồng nằm.

        7-Phụng Hoàng Sơn: núi Tô, cao 614m, dài 5,800m, ngang 3.700m, thuộc quận Tri Tôn (Châu Đốc).

        Trên đây là dẫn theo tài liệu có nhiều người kể lại, nhưng xét ra miền Bảy Núi còn có nhiều ngọn núi khác nữa, như: núi Trà Sư, Bà Đội Om, Nam Vi, v.v. …

        Vì vậy nên danh từ “Thất Sơn”(Bảy Núi) có nghĩa chỉ chung cho tất cả đồi núi thuộc tỉnh Châu Đốc. Ông Ba Thới có đề cập đến:

        “Mắt đoái nhìn Tiên cảnh Thất Sơn,

        Ngùi ngùi nhớ Chúa đội ơn lộc Thầy”.

        Đức Thầy nay cũng bảo:

        “Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,

            Miền Bảy Núi mà sau báu quí”.

        QUI Y THEO MẤY NGÀI: Nương về và tu đúng theo lời chỉ dạy của các Ngài từ Đức Thích Ca, mười phương Tam Bảo dẫn đến Quan Thượng Đẳng và Chư Quan Cựu Thần…Nếu ta hành động đúng theo hạnh đức của bậc nào thì chứng đắc đến bậc đó, chớ chẳng phải cố định một hạng. Có điều nên lưu ý là chúng ta “Tu hiền theo Phật Đạo”, chớ không phải tu theo Thần Đạo. Đức Thầy đã hằng khuyên:

                “Qui y thì khá làm y,

             Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

 

 2- BÀI TÂY PHƯƠNG NGŨ NGUYỆN

( 5 Lời nguyện hướng về Tây phương Cực  lạc )

 CHÁNH VĂN

        Nam-Mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Đại-từ Đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.

          Nam-Mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng, Liên-Hoa hải-hội, thượng Phật từ-bi, Phật-vương độ chúng, thế-giới bình-an.

          Nam Mô nhị nguyên cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh.

          Nam-Mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ-mẫu quá khứ trực vãng Tây-phương.

          Nam-Mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái, giải-thoát mê-ly.

          Nam-Mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật-Thầy từ-bi xá tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự, trí-huệ thông-minh, giai đắc đạo quả.

          Lạy 4 lạy rồi xá:

        1 xá chính giữa niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.

        1 xá bên trái niệm: Nam-Mô Đại-Thế Chí Bồ-Tát.

        1 xá bên mặt niệm: Nam-Mô Quan Thế-Âm Bồ-Tát.

 

LƯỢC GIẢI :

        Hai hàng chữ in nghiêng lợt dưới bài “Qui Y” là lời chỉ dẫn của Đức Thầy rất rành. Ngài dạy nguyện xong bài “Qui Y” rồi đứng lên cắm hương lạy 4 lạy, hoặc cắm hương nguyện luôn bài “Tây phương ngũ nguyện” rồi lạy một lần 4 lạy cũng được.

        Đại ý câu mở đề bài “Tây phương ngũ nguyện” là chúng ta cầu nguyện Đức Phật A Di Đà, tức là vị Giáo chủ Thế giới Cực Lạc mở lòng từ bi tiếp độ tất cả chúng sanh trong cõi Ta bà được vãng sanh về cảnh giới của Ngài. Dụng ý của Đức Thầy muốn dạy tín đồ noi gương Đức Phật, thể hiện lòng bác ái vị tha cứu khổ vạn loại chúng sanh để đáp ơn Tam Bảo.

        1- Nguyện thứ nhứt: Chúng ta cầu ba vị Vua ba cõi (tam hoàng) và Đức Phật chủ tọa “Liên hoa hải hội” cùng vị Phật vương hộ độ cho thế giới sớm hòa bình, nhân loại an cư vui sống.

        Ngụ ý là Ngài dạy đáp ân Đất nước và đồng bào nhân loại.

        2- Nguyện thứ nhì: Chúng ta cầu nguyện cho Tổ tiên Ông bà từ vô thỉ đến nay đều được siêu sanh Tịnh Độ.

        Có dụng ý đền ơn Tổ tiên tộc họ.

        3- Nguyện thứ ba: Chúng ta cầu nguyện cho cha mẹ còn hiện tiền được sống lâu, hạnh phúc và cha mẹ đã qua đời từ vô lượng kiếp đều được vãng sanh về Tây phương Cực lạc.

        Có dụng ý là đáp ơn sanh dưỡng của cha mẹ.

        4- Nguyện thứ tư: Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể dân chúng đều phát tâm tu hành, mở rộng lòng từ bi bác ái, để giải thoát cảnh mê đồ thống khổ.

        Có dụng ý là đáp ơn Đồng bào nhân loại và ơn Đàn na thí chủ.

        5– Nguyện thứ năm: Chúng ta cầu nguyện Đức Phật Tổ, Phật Thầy từ bi xá tội các đệ tử, được tai qua nạn khỏi, tật bịnh tiêu trừ, trí huệ sáng suốt và tất cả được chứng đắc Đạo quả.

        Câu nầy Đức Thầy cũng có dụng ý dạy tất cả môn đồ noi gương hạnh của Phật và Tổ Thầy mà nuôi chí tu tiến cho đến ngày thành đạo giải thóat hầu đáp ơn Tam Bảo.

        Tóm lại, trong bài “Tây phương ngũ nguyện”, Đức Thầy có dụng ý dạy tín đồ thành tâm khẩn nguyện và noi gương Đức Phật A Di Đà cùng Phật Tổ, Phật Thầy thể hiện lòng từ bi cứu khổ vạn loại chúng sanh, lo đền đáp “Tứ đại trọng ân” để xứng đáng với hạnh Bồ Tát, như trong Kinh “Tâm Địa Quán” Phật đã dạy:“Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.

 

CHÚ THÍCH :

        PHỔ ĐỘ: Cứu độ khắp cả, tế độ các giới chúng sanh thoát khỏi cảnh mê đồ thống khổ, Đức Thầy có câu:

                “Oai thần đem Đạo huyền thâm,

           Nhiệm mầu phổ độ âm thầm ai hay”.

        THIÊN HOÀNG: Cũng gọi là Thiên đế. Có nghĩa vua cai quản các cõi Trời. Chỉ cho Đức Ngọc Đế hay Thiên Đế Thích.

        ĐỊA HOÀNG: Diêm La Vương, vị vua cai quản các cõi Địa ngục.

        NHƠN HOÀNG: Vua cõi người. Chỉ cho vị Thánh Vương đời Thượng ngươn sắp tới. Trong Giảng Mười Một Hồi, Ngài Huệ Lựu có nói:

                “Minh Vương xuất thế ngôi cao,

          Lập đời thượng cổ anh hào hiền lương”.

        Đức Thầy nay cũng bảo:

        Đức Minh Vương ngự chốn Nam thành,

          Đặng phân xử những người bội nghĩa”.

        Các từ ngữ Tam hoàng nói trên, Đức Thầy có diễn giải một đoạn như sau:

“Hiền lành chừng đó sum vầy,

Quân thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.

                           Đến đó ta mới mừng cười

                                        Nhìn xem Ngọc Đế giữa trời định phân.

Thiên Hoàng mở cửa các lân,

  Địa Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn;

                                                 Mười cửa xem thấy ghê hồn,

                                       Cho trần coi thử có mà hay không ?

                                               Nhơn Hoàng cũng lấy lẽ công,

                                         Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.

                                               Ấy là đến lúc xuê xang                                                                             Tam Hoàng trở lại là đời Thượng Ngươn”.

        LIÊN HOA HẢI HỘI: Liên hoa là hoa sen. Có nghĩa trong sạch và thanh tịnh. Chỉ cho người tu đắc đạo; Hải hội là hội lớn, chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn đều cu hội rất đông như biển không thể đếm hết con số. Hiểu chung, từ ngữ “Liên Hoa Hải Hội” là số người tu chứng, cu hội về đông như biển cả. Từ xưa Đức Phật nào xuất thế đều có cu hội số đệ tử thành đạo, để xướng danh và thọ ký. Như thời Đức Thích Ca có lập “Linh Sơn Hội” để truyền tâm ấn cho Ngài Ca Diếp. Cho nên, Đức Kim Sơn Phật hiện nay cũng sẽ có “Liên Hoa Hải Hội”.

        THƯỢNG PHẬT TỪ BI: Vị Phật chủ tọa Liên Hoa Hải Hội tới đây, đứng đầu chư Phật chứng đắc hiện tại, chỉ cho Đức Kim Sơn Phật.

        PHẬT VƯƠNG: Vua Phật, vị Giáo Chủ cõi Phật ở tương lai, cũng như hiện tại các giới đều tôn xưng Đức Thích Ca là Vua Pháp, vua Phật:“Ngài là vua Pháp tột cao”.( ĐT).

        -Ở đây còn có ý nghĩa chỉ cho vị Chuyển Luân Thánh Vương (tu gần đắc quả Phật). Ngài có trách nhiệm, đem lại sự hòa bình an lạc cho nhân loại khắp thế giới.

        TỊNH ĐỘ: Cũng gọi là Tịnh Thổ, tức cõi đất hoàn toàn trong sạch an nhiên, cũng gọi là Cực Lạc hay An Dưỡng Quốc. Đức Thầy có câu:

        “Cõi Tịnh Độ lắm điều thanh nhã,

           Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn”.

        SIÊU SANH: Vượt khỏi cảnh thế tục luân hồi, được trở về cõi bất sanh bất diệt. Bốn chữ “Tịnh Độ Siêu Sanh” có nghĩa: người được Vãng sanh về quốc độ Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử. Đức Thầy cho biết:

                “Có người tu niệm đáng thương,

           Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh”.

        PHỤ MẪU TẠI ĐƯỜNG: Cha mẹ lúc còn sống.

        TĂNG LONG PHƯỚC THỌ: Sống lâu, thêm tuổi và hưởng đầy hạnh phúc.

        PHỤ MẪU QUÁ KHỨ: Cha mẹ qua đời từ vô lượng kiếp đến nay.

        TRỰC VÃNG TÂY PHƯƠNG: Vãng sanh thẳng về cõi Tây Phương Cực Lạc.

        VẠN DÂN: Muôn dân, chỉ chung cho tất cả dân chúng loài người.

        TỪ TÂM: Lòng lành, khởi tâm bỏ dữ làm lành và thương xót muôn loài vạn vật.

        BÁC ÁI: Lòng thương yêu rộng lớn.

        MÊ LY: Say mê đắm đuối theo một việc gì, gần như không còn biết đến mọi sự vật bên ngoài. Đây chỉ cho sự mê luyến cõi hồng trần.

        XÁ TỘI: Tha tội.

        TỊNH SỰ: Yên tịnh không việc gì bận rộn lo sợ.

        TIÊU TAI: Hết tai họa bệnh tật.

        THÔNG MINH: Sáng suốt, hiểu biết mọi sự rõ ràng, không lầm lạc.

        GIAI ĐẮC ĐẠO QUẢ: Đều được chứng thành Đạo quả. Chỉ cho người tu đạt được mục đích giải thoát.

        ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT: Vị Bồ Tát đã chứng đắc lâu đời, có nghị lực oai thần to lớn cùng cực biểu hiện cho đại trí huệ và đứng hầu bên hữu Đức Phật A Di Đà.

         Trong Kinh Bi Hoa, nguyên Ngài là Thái Tử Ni Ma, con của Vua Vô Tránh Niệm. Khi nghe Bảo Tạng Như Lai thuyết pháp, vua cha ngộ đặng chơn lý phát tâm hành đạo thì Thái Tử cũng phát tâm tu hành, theo phụng sự Phật Bảo Tạng và chúng tăng trọn 3 tháng. Ngài phát nguyện cầu thành Phật Đạo. Đức Bảo Tạng liền thọ ký cho Ngài sẽ thành Đại Thế Chí Bồ Tát ở cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

        Khi tu chứng quả, Ngài dùng oai thần rộng lớn, trí huệ sáng mầu soi khắp mười phương, khiến cho chúng sanh cảm đức mà tu tỉnh thoát khổ. Ngài đặt bước đến đâu chư Thiên đều chấn động, chúng Ma Vương khiếp sợ, cung điện nghiêng ngã. Vì Ngài có oai thần như vậy nên được đời tôn xưng là Đại Thế Chí. Khi Đức Phật Thích Ca xuất thế, Ngài có hiện thân đến làm đệ tử, đặng trợ duyên Phật sự, giáo hóa chúng sanh.

        Trong Hội Lăng Nghiêm, Ngài Đại Thế Chí có trình bày pháp tu trước Phật Thích Ca như vầy:

        “Tôi còn nhớ trước kia thuở Phật Siêu Nhựt Quang ra đời, Ngài có dạy tôi pháp Niệm Phật Tam Muội (chánh định), tôi nhờ niệm Phật theo pháp ấy, nên chứng được “vô sanh pháp nhẫn”. Từ ấy tôi theo sát Phật A Di Đà, đứng hầu bên hữu và tiếp độ chúng sanh về cõi Cực Lạc của Ngài”.

        QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT: Có nghĩa nghe xét tiếng của cả chúng sanh trong pháp giới hầu dùng thần thông cứu độ. Ngài cũng có tên là Quán Tự Tại hay Liên Hoa Thủ. Là một vị Bồ Tát rất có lòng từ bi hay cứu khổ cứu nạn nên có danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Ở đâu cũng có thờ và tụng niệm đến danh hiệu của Ngài. Ngài biểu hiện cho đại từ bi và đứng hầu bên tả Đức Phật A Di Đà.

        Kinh Phật chép rằng lúc chưa xuất gia tu hành, Ngài là con đầu lòng của Vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử. Khi Vua cha phát tâm hành đạo theo Đức Bảo Tạng Như Lai thì Ngài cũng thức tỉnh tu hành, phát lời Đại nguyện:“Tôi nguyện đem tất cả công đức mà tôi đã cúng dường Tam Bảo, và các món thiện căn tôi đã từng tu tập pháp mầu xin hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện cứu độ tất cả chúng sanh khổ đau họa hoạn, khi có ai niệm đến danh hiệu tôi, tôi sẽ dùng oai thần cứu độ khỏi khổ và đặng an vui”.

        Vì vậy, trong thế gian nầy, chỗ nào, lúc nào khi có sự khổ đau, chúng sanh nào niệm đến danh hiệu Ngài thì Bồ Tát sẽ rộng lòng từ mẫn, dùng pháp mầu cứu độ chúng sanh đó. Hiện nay Bồ Tát Quan Thế Âm đang hầu một bên Đức Phật A Di Đà tại cảnh giới Tây phương Cực Lạc và hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh khắp mười phương về cõi ấy.

        Bởi Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đồng có nguyện lực tiếp dẫn chúng sanh mười phương vãng sanh về Cực Lạc như Đức Phật A Di Đà nên Đức Thầy dạy chúng ta: Khi xá chính giữa niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì cũng xá hai bên niệm danh hiệu hai vị Bồ Tát nói trên. (Cũng cần lưu ý Ngài Đại Thế Chí đứng bên phải của Đức A Di Đà là phía trái của ta. Còn Ngài Quan Thế Âm đứng bên trái của Phật, tức phía phải của ta).

        CÚNG LẠY: Do chữ “lễ bái”. Có nghĩa thành tâm cung kính nguyện, vái, xá hay lạy. Kinh Phật xưa có giải 7 cách lạy, từ thô sơ đến tinh tế, người tu hành cần phải hiểu để lạy cách nào cho kết quả. Xin đại lược như sau:

        1-Ngã mạn lễ: Lạy cách ngã mạn, tức là thân tuy đứng lạy, song chẳng thật lòng thành tín.

        2-Cầu danh lễ: Lạy cách cầu danh, tức dối bày oai nghi, thường lạy Phật, niệm Phật, chớ lòng luôn theo đuổi ngoại cảnh, hoặc vọng cầu sự linh thính, để người khác khen ngợi mình có tu có chứng..

        3-Thân tâm lễ: Thân tâm đồng lạy, tức ngoài thân tướng trang nghiêm, cung kính, tinh tấn siêng năng, trong tâm luôn tưởng nhớ chư Phật, không một niệm sai khác.

        4-Trí huệ thanh tịnh lễ: Lúc lạy tâm trí yên lặng, trong sáng. Bên trong định huệ gồm đủ, không mảy may tán loạn. Bên ngoài trần cảnh không làm chướng ngại hay chi phối được.

        5-Bình đẳng lễ: Thân tâm đều bình đẳng, đối với vạn pháp lúc nào cũng chẳng rời tánh bổn lai; nhưng cũng không còn tướng nhơn ngã, xem vạn vật đồng nhất thể. Cho nên khi lạy một Đức Phật, tức cảm thông hết mười phương chư Phật.

        6-Chánh quán lễ: Lạy Phật bằng cách quán xét pháp thân toàn giác của mình, tức nhiếp tâm chánh niệm; tuy lễ bái chư Phật mà cũng lễ bái Phật thân của mình, lòng không còn nhiễm ô trần trược. Pháp thân mình cùng Phật đều hòa nhau tự tại giải thoát.

        7-Thật tướng lễ: Lạy cách trở về thật tướng chơn như. Các cách lạy trước đây còn thấy có lễ, có quán, có tu, mình và chư Phật có khác; giờ đây gom về một, mình và Phật cũng không, phàm thánh một nguồn, Thể và Dụng chẳng phải hai “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản”. 

        Tóm lại, trong bảy cách lễ bái trên đây, hai cách đầu gọi là tà lễ, hành giả nên diệt trừ. Vì nếu khi lạy tâm còn cầu danh, ngã mạn thì dù có lạy cũng luống công. Còn năm cách sau gọi là chánh lễ, tức là “Thân tâm đồng nhứt, trí huệ thanh tịnh, bình đẳng, chánh quán và thật tướng”. Nhà tu ráng rèn tập cho lòng có được như vậy tức mình và Phật không sai khác, ấy là kết quả. Đức Thầy nay cũng dạy từ chỗ:“Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm”, đi lần đến chỗ:“Vô Pháp tướng mới là thiệt tướng” “Hương tuyệt đăng lui bãi phục cầu”.

 

 BÀN THÔNG THIÊN

(SGTVTB 2004, tr. 212)

 CHÁNH VĂN

          Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.

          Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Qui-Y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây-Phương ngũ nguyện. (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).

          (Khi cầu nguyện, nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).

           Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.

 

LƯỢC GIẢI :

          Lạy bàn Phật (Tam Bảo) xong, ra bàn Thông thiên cũng cầm hương xá 3 xá, quì xuống chấp tay đưa lên trán nguyện đọc bài “Qui y”; rồi xá xuống; cắm hương đứng ngay thẳng, chấp tay vào ngực đọc tiếp bài “Tậy phương ngũ nguyện” và lạy 4 lạy rồi cũng xá 3 xá: chính giữa và 2 bên…Nên nhớ khi xoay lạy 4 hướng cũng phải xoay theo chiều thuận từ phải sang trái (chiều kim đồng hồ).

        Lạy thì có 2 cách:“Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh”. Lạy 4 hướng và mỗi hướng lạy 4 lạy cũng có ngụ ý là đền đáp “Tứ Ân”.

        THỜI GIAN LỄ BÁI:

        Căn cứ vào các đoạn Giảng Đức Thầy đã dạy, như:

        “Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,

          Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.

        Và:

                “Sớm chiều bình đẳng chớ lơi,

          Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai”.

        Vậy là người tín đồ PGHH mỗi ngày lễ bái hai thời: Sáng và Chiều. Lúc mới khai Đạo, Đức Thầy chưa ấn định hai thời cúng từ giờ nào đến giờ nào, nên sau nầy trong Đạo có người cúng thời chiều quá sớm (mặt trời chưa lặn). Còn thời sáng thì quá trễ (6-7 giờ còn đứng cúng trước bàn Thông thiên). Do đó, Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương sau khi ra đời có  họp bàn và phân định giờ cúng như sau:

        SÁNG: Vào khoảng 4 giờ đến 6 giờ (trước khi mặt trời mọc);

        CHIỀU:Vào khoảng 6 giờ tới 8 giờ tối (sau khi mặt tời lặn).

        Thấy ra cúng khoảng các giờ nầy rất thích hợp và thuận tiện cho người Cư sĩ Tại gia ! (Theo lời Đức Ông – thân sinh Đức Thầy – và các ông Nguyễn Chi Diệp, Huỳnh Hữu Phỉ…kể lại thì Đức Thầy không cho lễ bái 12 giờ đêm (giờ Tý). Còn giờ Ngọ (12 giờ trưa) thì Ngài mặc nhận, không ép mà cũng không cấm tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Miễn 2 giờ chánh: sáng và chiều đừng bỏ sót là tốt).

 

CHÚ THÍCH :

        BÀN THÔNG THIÊN: Bàn thờ thông lên Trời, cũng gọi là bàn thờ cộng đồng Tam Giáo (Phật Thánh Tiên). (Xem lại phần chú thích ý nghĩa 3 ngôi thờ cúng ở  Mục Thờ Phượng, tr.119 ).

        LẠY ĐỨNG: Lúc lạy đứng, bàn tay trái để nơi ngực, bàn tay mặt chỏi nghiêng rồi từ từ cúi mình xuống, lật ngửa hai bàn tay lên, trán úp sát xuống, hai cùi chỏ xuống tới chiếu và đụng 2 đầu gối, hai chơn xuôi thẳng ra sau và khít lại:“Ngũ thể đầu địa” (cái đầu và 2 đầu gối, 2 cùi chỏ, cả 5 cái đều sát chiếu).

        Lúc đứng lên, bàn tay trái đem vào ngực, bàn tay mặt chống (trên đầu gối trái) để nương mình lên, cần giữ cố định chân phải để làm chuẩn.. Khi đứng thẳng, hai tay liền chấp vào ngực, xá 1 xá rồi mới lạy tiếp theo như trước cho đủ 4 lạy.

        LẠY QUÌ: Lưng thẳng, hai tay chắp từ trên trán lạy xuống; lúc ngẩng lên, cũng thẳng lưng (quì thẳng chớ không phải quì ngồi), hai bàn tay chắp vào ngực, rồi đưa lên tới trán mới lạy xuống.

        CÁCH XÁ: Khi xá, chắp tay vào ngực rồi đưa lên trán, rồi lại đưa xuống sát ngực, đồng thời đầu cúi xuống; trong mỗi xá, niệm một câu Phật hiệu. Không nên xá lia lịa khiến niệm Phật không theo kịp.

 

                                                     NIỆM PHẬT

(SGTVTB 2004, tr. 212)

 CHÁNH VĂN

          Cúng xong, muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng lưng niệm: “Nam-Mô A-Di-Đà Phật”.

          Hay niệm: “Nam Mô Tây-Phương Cực-lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật”.

        (Niệm Phật nhiều ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm) .

          Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật, sáu chữ, đi, đứng, nằm, ngồi rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc.

 

LƯỢC GIẢI :

        Bài niệm Phật tạm chia làm 4 phần:

        1- Niệm Phật theo thời khắc: Sau mỗi thời cúng thường lệ, mỗi tín đồ đều ngồi niệm Phật với tư thế bán già, tức chân mặt gác lên chân trái, hai tay chấp vào ngực hoặc xòe ra để chồng lên nhau như hai chân. Lưng thẳng, vì nếu lưng cong thì ngồi lâu bị bịnh tức ngực và dễ hôn trầm. Ngồi tư thế nầy tức là theo cách hàng ma của Ngài Văn Thù Bồ Tát. Thời gian niệm Phật lâu hay mau, tùy theo sức khỏe của mỗi hành giả, chớ không cố định, nhưng có điều là:“Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi”.( ĐT)

        2- Niệm liên tiếp không ngừng nghỉ: Tức đi, đứng, nằm, ngồi, uống, ăn, ngủ, nghỉ và trong mọi công tác sinh hoạt: cuốc đất, làm cỏ, quét nhà, nấu cơm…người tu đều niệm Phật được cả. Đức Thầy hằng khuyên:

        “Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối,

          Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.

          Thì hiền lương quên mất điều tà,

          Đặng hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.

        Và:

        “Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,

          Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp”.

        3- Niệm Phật thầm:Lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm”. Đấy là Đức Thầy dạy chúng ta niệm Phật trong tâm tức niệm thầm, niệm bằng tâm tưởng; khi đó tâm ta mắc tưởng nhớ Phật còn rảnh đâu mà vọng nghĩ chuyện khác. Hơn nữa, lúc niệm Phật thầm, mắt ta xoay cái ngó vào trong để kiểm soát tâm ý mình một cách chặt chẽ không hề để vọng niệm xen tạp. Tai ta cũng xoay cái nghe vào trong để nghe rõ từng câu, từng tiếng niệm Phật. Lúc ấy dầu có bao nhiêu tiếng động bên ngoài, tâm ý mình cũng không xao động tán loạn. Đây là lối tu “Phản văn, văn tự tánh” của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thực hành và đã kết quả viên mãn.

        Tóm lại, Đức Thầy có thực nghiệm và chứng đắc mới dạy tín đồ cách niệm Phật thầm. Nếu ai cố gắng thực hành, chắc chắn tâm trí mau thanh tịnh và sáng tỏ.

          4- Niệm Phật cả hai câu “Lục tự” và câu “Tây phương Cực Lạc Thế Giới tam…”: Sở dĩ Đức Thầy dạy tín đồ niệm Phật như vậy, là vì nếu chỉ niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật” thì chúng ta chỉ cầu Đức Phật A Di Đà tiếp độ cho cá nhân mình thôi. Như vậy mới được phần tự giác. Còn chúng ta niệm luôn câu:“Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới…” là cầu hết chư Phật ở cõi Cực Lạc và Đức Phật A Di Đà tiếp độ cả vạn loại chúng sanh. Đây là được thêm phần giác tha. Bởi Đức Thầy dạy chúng ta vừa tu cho mình (tự giác) và vừa tu cầu cho mọi người mọi giới (giác tha) để đạt đến “Giác hạnh Viên mãn”.

        “Tự giác, giác tha Ta phải nói”.( ĐT)

        Tóm lại, Đức Thầy dạy tín đồ bài niệm Phật nầy có dụng ý: tuy người tu mang hình thức tại gia, nhưng thực hành pháp Đại thừa Bồ Tát Đạo, như Ngài từng bảo:

        “Say Đạo huyền vi nước tịnh dương,

           Say câu Bồ Tát rưới cho thường”.

 

CHÚ THÍCH :

        NIỆM PHẬT: Do chữ “niệm Phật ức Phật”. Có nghĩa: niệm Phật để tưởng nhớ Phật và làm theo hạnh Phật. Song chữ niệm Phật có hai nghĩa: Sự và Lý.

        1-VỀ SỰ: là dùng tâm tưởng nhớ Phật để chừng bỏ thân tứ đại, linh hồn được sanh về cõi Phật, như Đức Thầy đã bảo:

                “Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,

                   Hưởng công niệm Phật rất yên lành”.

        Ví như hai người, người nầy nhớ người kia mà người kia không nhớ lại thì chẳng khi nào gặp nhau. Bằng hai người đồng nhớ thì sớm muộn gì cũng gặp. Phật lúc nào cũng nhớ thương chúng sanh mãi trôi lăn trong vòng khổ, nên hằng tìm kiếm cứu vớt đem về. Thế mà chúng sanh không chịu nhớ Phật thì chẳng bao giờ được gặp. Bằng chúng sanh biết nhớ Phật liên tục, tức đặng gặp Phật tiếp độ.

        Theo nghĩa nầy người niệm Phật phải thành tâm khẩn thiết, nhớ Phật như con nhớ cha mẹ, kẻ đói thèm cơm, người đắm thuyền kêu cứu thì việc vãng sanh Cực Lạc sẽ chắc chắn như lấy đồ trong túi.

        2-VỀ LÝ: là mượn tiếng niệm Phật để trừ hết vọng niệm phiền não, tức tâm bình tịnh, huệ nhựt hiện bày, và được trở về với tánh toàn giác, hay bản lai thanh tịnh của chính mình. Ví như ly nước đục lọc hết cặn cáu, còn lại chất nước trong. Bởi ngoài vọng tâm không có Phật, ngoài phiền não không có Bồ Đề, “Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.( ĐT)

        Người niệm Phật theo nghĩa nầy sẽ trực kiến:“Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” mà thành quả giải thoát tại thế gian. Như Đức Thầy đã dạy:

                “Tu cầu Phật hóa tánh tình,

            Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao”.

 

     CẦU NGUYỆN LÚC ĂN CƠM – CHAY LẠT – ĐI XA NHÀ.

      (SGTVTB 2004, tr. 212-213)

 CHÁNH VĂN

 

      NGUYỆN LÚC ĂN CƠM

          Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy, đều nguyện vái Cửu Huyển, Thất Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo.

ĂN CHAY.

          Đến ngày đơm quảy có chi cúng nấy

          Ăn chay ngày 14-15, 29-30, tháng thiếu 29-1, có nhang thì đốt, không có thì nguyện không.

          Hàng năm, đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1 phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi.

ĐI XA NHÀ.

          Đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Còn đi xa thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.

 

LƯỢC GIẢI :

        Ba đề mục trên đây, chúng tôi chỉ chú thích các từ ngữ, nhưng cũng bàn về tục lệ chung quanh ba ngày Tết. Theo ý Đức Thầy dạy thì hãy bỏ các tục lệ dị đoan mê tín, chỉ giữ lại những tục lệ chơn chánh như:

        Chiều 29 hoặc 30 năm cũ (tùy theo tháng 12 đủ hay thiếu), giữ tục cúng ông bà tức Cửu Huyền Thất Tổ (cúng chay), 12 giờ đêm 30 Tết cúng rước giao thừa, nhưng không nên dựng nêu, treo bùa hay đốt pháo…Ngày mùng ba, chỉ dùng bông hoa cúng tế Trời Phật, chớ không nên sát sanh gà vịt, coi giò, coi đầu chi hết. Không nên đốt hoặc dán giấy vàng bạc. Không rượu chè say sưa, cờ bạc, đá gà…

 

CHÚ THÍCH :

        ĂN CHAY: Cũng viết là ăn trai, tức là không ăn những vật có mạng sống (hữu tình), mà chỉ ăn những vật không có mạng sống (vô tình), như: rau cải, trái củ và tương chao, đậu hủ…

        Ăn chay đối lập với ăn mặn, cho nên mục đích của sự ăn chay là để tăng trưởng lòng nhơn, nuôi dưỡng đức tánh từ bi, diệt tâm hiếu sát để tránh luân hồi quả báo.

        1- Chay kỳ: Ăn mỗi tháng 4 ngày, như Đức Thầy dạy những người mới tu, hạng thấp nhứt là cũng phải giữ đúng qui tắc:“Chay bốn bữa ấy là qui tắc”.

        Rồi lần lần tiến lên mỗi tháng 6 ngày hoặc 10 ngày hay mỗi năm ăn ba tháng có 3 cái rằm lớn là: Thượng ngươn (tháng giêng), Trung ngươn (tháng 7), Hạ ngươn (tháng 10). Rồi tùy theo trình độ và lòng nhơn của mình mà tiến lên.

        2- Chay trường (hay trường chay) : Tức là ăn chay suốt luôn không có ngày giờ nào ăn mặn.

        Song nhà tu không chỉ có khẩu chay mà cần phải có tâm chay mới đạt kết quả trọn vẹn. Người giữ tâm chay là giữ giới hạnh tinh nghiệm, những tư tưởng tà vạy, bợn nhơ dứt sạch, lòng luôn luôn thanh tịnh ngay chánh:“Từ bi, bác ái. dĩ đức, háo sanh…” Đức Thầy từng dạy:“Tâm chay hậu tấn rán tu thân”. Và:

        Chữ Nam Mô trì giái giữ chay,

           Chay được tánh chay tâm mới quí”  

        ĐƠM QUẢY: Cũng gọi là giỗ quảy, đơm cúng trong ngày giỗ. Có nghĩa đem cỗ (các thức ăn) dâng lên bàn thờ cúng ông bà cha mẹ đã qua đời. Đức Thầy có câu:

        “Giường linh đơm quảy mới là,

           Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi !”

        BA NGÀY XUÂN NHỰT: Ba ngày Tết, vì ba ngày Tết nhằm đầu mùa Xuân (Tiết nguyên đán). Chữ Tết do chữ tiết đọc trại, xưa người ta kể mùng một, mùng hai và mùng ba, tiếng dùng chỉ chung cho các ngày Tết. Nhưng hiện nay Đức Thầy dạy là 29-30 và mùng một (hai ngày cuối một năm và một ngày đầu năm). Ngài từng nói:

        Nhắn nhủ khắp nơi hỏi một bài,

           Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai”.

        NGUYỆN TƯỞNG TRONG TÂM: Cầu nguyện và niệm Phật thầm trong tâm chớ không đọc lớn tiếng.

LỜI KHUYÊN BỔN ĐẠO

(Tám điều răn cấm)

(SGTVTB 2004 tr. 214-215)

 (1)   ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NHỨT

 

CHÁNH VĂN

        Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa-sang những thói hư tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn-cấm sau đây:

          Điều thứ nhứt: Ta chẳng nên uống rượu, cờ-bạc, á-phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân-lý tam- cang ngũ-thường.

 

LƯỢC GIẢI :

        PHẦN MỞ ĐỀ:

        Xưa người tu Phật khi đặt chân vào cửa Đạo, ai cũng chuyên trì giới luật, như hàng Cư sĩ thì giữ Ngũ giới. Còn hàng xuất gia: tỳ kheo giữ 250 giới, tỳ kheo ni giữ 348 giới.

        Đúc Thầy nay trong bài “Lời Khuyên Bổn Đạo”, Ngài dạy toàn thể tín đồ giữ Bát giới, tức “Tám Điều Răn  Cấm”. Ngài bảo: Khi xem Kệ Giảng và qui y thì mỗi người phải tự xét thân tâm mình, nếu còn xấu xa tội lỗi thì chừa hẳn và giữ gìn đừng để vi phạm “Tám điều răn cấm” như sau:

 

        1-ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NHỨT:

        Trong điều thứ nhứt, Đức Thầy dạy có 2 phần:

        a)- Phần thứ nhứt: Phải xa lánh “tứ đổ tường” tức 4 vách tường đổ: tửu, sắc, tài, khí, và nếu ai còn đắm mê các món đó thì sống cuộc đời hư hỏng, bê tha vất mã, trụy lạc, hoang đàng, trà đình tửu điếm, rồi nảy sanh muôn điều tội lỗi khác.

           Sa bốn vách mang điều nhơ nhuốc”.( ĐT)

        Bằng ai tránh được nó, tức chận đứng được các hột giống tội lỗi thì trở thành con người tốt đẹp, vượt trên người thường. Đức Thầy từng dạy:

        Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,

        Với bốn ma mới đặng an nhàn”.

        b)- Phần thứ nhì: Phải ăn ở đúng theo Đạo lý và xử vẹn ba giềng mối lớn là “Tam Cang”: “Rán giữ gìn luân ký tam cang và “Ngũ Thường” “Thân làm Đạo ba giềng năm mối( ĐT) để được xong toàn phần Nhân đạo.

        Chủ đích điều răn cấm thứ nhứt, Đức Thầy muốn răn dạy tín đồ xa lánh Tứ đổ tường và hoàn thành Nhân đạo để làm nền tảng tiến lên Phật Đạo.

 

CHÚ THÍCH :

        UỐNG RƯỢU: (Xem chú thích bài “Những điều phải tránh…”, tr. 144-145).

        CỜ BẠC: Do chữ “Đổ bác”, cũng gọi là bài bạc, chơi ăn thua bằng tiền bạc, như: me, đề, tài xỉu, đánh các loại bài, đá gà, đá cá…, chơi cờ và đua ngựa mà đánh cá bằng tiền bạc cũng gọi là cờ bạc. Tục ngữ thường nói:

                “Cờ bạc là bác thằng bần,

         Cửa nhà bán hết tra chân vào cùm”.  

        Bởi cờ bạc hay sanh trộm cướp, nên Cư sĩ Bàng Uẩn công có răn đời”

        Phàm nhơn bá nghệ hảo tùy thân,

        Đổ bác môn trung mạc khứ thân.

        Năng sử anh hùng vi hạ tiện,

        Giải giao phú quí tác cơ bần”.

        (Phàm người có trăm nghề đều nên đem theo, nhưng cửa cờ bạc thì đừng gần. Vì nghề ấy khiến bậc anh hùng trở nên hèn hạ, kẻ giàu sang thành nghèo khổ, thiên hạ chê cười). Đức Thầy hằng khuyên:“ Đừng chơi cờ bạc đừng làm ác gian. Và:

        “Cuộc trần ôi quá khổ !

          Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ.

          Biết bao người vì nó phải bơ vơ,

          Sự nghiệp hết gia đình tan nát.

          Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát,

        Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân.

          Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,

          Thân trí cực nợ lần khân chẳng dứt.

          Chi cho bằng:

                   Qui y thì khá làm y,

          Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời”.

        Á PHIỆN: Xem chú thích chữ Thuốc phiện bài “Những điều phải tránh…, tr. 145.

        ĐÀNG ĐIẾM: Cũng gọi là điếm đàng. Trai thì gian tà xảo quyệt, lường gạt chơi bời. Gái thì đĩ thõa, dâm ô, trai gái, bán dâm. Đức Thầy khuyên:

                Điếm đàng đĩ thõa chớ gần,

           Để sau xem thấy non Tần xôn xao”.

        LUÂN LÝ: Xem chú thích chữ Luân lý, bài “Ác tà dâm”, tr. 59.

        TAM CANG: Ba giềng mối lớn, tức Vua tôi, Cha con, Chồng vợ. Người chưa có gia đình thì giềng thứ ba là Sư đệ (Thầy trò). Cách đối xử:

        -Công dân phải tận trung với Đất nước (Tổ Quốc),

        -Con phải hiếu thảo với cha mẹ,   

        -Vợ chồng thì ân nghĩa song toàn,

        -Thầy thì tận tâm dạy dỗ, trò phải hết dạ tôn kính phụng hành. Đức Thầy từng dạy:

        Rán giữ gìn luân lý tam cang,

           Tròn đức hạnh mới là báu quí”.

        NGŨ THƯỜNG: Năm mối thường hằng, gồm có: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đức Thầy có câu:“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng”.

        – NHÂN: là lòng hiếu đạo hay thương người mến vật và tận tâm giúp đỡ những gì lợi lạc cho kẻ khác, không phân biệt đẳng cấp…Đức Thầy dạy:

                Lòng nhơn xin khá tập rèn,

            Thạch Sùng Vương Khải sách đèn ai ưa”.

        – NGHĨA: Lòng tốt, hay làm việc phải có ích lợi cho mọi người, đúng theo con đường đạo lý mà không hề vụ lợi. Đức Thầy từng khuyên:

                Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,

           Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần”.

        – LỄ: kính ý của con người, từ cách chào hỏi đối đáp với mọi người, dầu nam hay nữ đều có khuôn phép bặt thiệp. Kính người trên, nhường kẻ dưới. Đầy lòng tôn kính các bậc: Phật, Trời, Thần, Thánh.

        – TRÍ: Sự sáng suốt. Trước khi nói hay làm việc gì đều dùng trí suy xét cẩn thận, phán đoán công bằng ngay chánh. Như lấy trí nhận xét các thứ: rượu chè, cờ bạc, đàng điếm, hút xách đều có hại cho cơ thể, danh dự, gia đình, đất nước nên nhứt định không đắm nhiễm. Đức Thầy luôn nhắc nhở:

        “Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,

           Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà”.

        – TÍN: là lòng tín thành chơn thật đối với Đạo lý chân chánh, với Thầy Tổ sáng lành, với bạn bè trung thực. Trước sau như một không hề thay đổi.

        Tóm lại, khi hành được Ngũ Thường thì không còn vi phạm Ngũ giới, như:

        -Hành được chữ NHÂN thì không Sát sanh.

        -Hành được chữ NGHĨA thì không Đạo tặc.

        -Hành được chữ LỄ thì không Tà dâm.

        -Hành được chữ TRÍ thì không ô nhiễm Tửu, Sắc, Tài, Khí.

        -Hành được chữ TÍN thì không Vọng ngữ.

 

                                         (2) ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NHÌ

 

CHÁNH VĂN

          Điều thứ nhì: Ta chẳng nên lười-biếng, phải cần-kiệm, sốt-sắng, lo làm ăn và lo tu-hiền chơn chất, chẳng nên gây-gổ lẫn nhau, hãy tha-thứ tội-lỗi cho nhau trong khi nóng giận.

 

LƯỢC GIẢI :

          Đại lược điều răn cấm thứ nhì có hai ý:

        a)- Ý thứ nhứt: Đức Thầy dạy tín đồ trong việc làm ăn cần bỏ tánh biếng lười, giải đãi và phải siêng năng tiết kiệm. Vì nếu siêng năng mà không tiết kiệm thì dầu  làm được bao nhiêu tiền của cũng xa hoa phung phí hết. Điều cần nhớ tiết kiệm không phải là hà tiện, mà là biết cách xài tiền, việc nào đáng xài thì xài, việc không đáng xài thì dành lại để làm việc công ích.

        Song không chỉ có làm ăn suông, mà phải tinh tấn tu hành; vì lo làm ăn mà chẳng lo tu hiền thì suốt đời chỉ đem thân phục vụ cho vật chất, rồi vương nhiều nghiệp tội, rốt cuộc:“Nhắm mắt cũng nắm hai tay”( ĐT). Còn linh hồn phải luân chuyển báo đền. Bằng tu hành mà không lo làm ăn thì đâu có tiền của để sống và giúp đời, thế cũng không an tâm tu niệm, nên Đức Thầy dạy:Hãy sốt sắng làm ăn cần thiết”.

        b)- Ý thứ hai: Là không nên oán hận, thù hiềm hoặc gây gổ với mọi người dù ở trong thân tộc hay ngoài xã hội. Hãy mở lòng thương yêu, nhẫn nhịn và khoan dung những kẻ lầm lỗi. Đức Thầy khuyên:

        “Ta thường nên tập tánh khoan dung,

          Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,

          Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.

          Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,

          Khỏi mất lòng tất cả mọi người.

          Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,

          Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo”.

        Chủ đích điều răn cấm thứ nhì là Đức Thầy dạy tín đồ bỏ tánh lười biếng, giải đãi, hẹp hòi, sân hận, mà phải rèn luyện các đức tánh: tiết kiệm, tinh tấn, bi mẫn, khoan dung.

 

CHÚ THÍCH :

        CẦN KIỆM: Siêng năng và tiết kiệm. Chỉ cho người biết xài tiền, gặp việc đáng xài mới xài, chớ không xài hoang phí. Đức Thầy hằng khuyên:

        Khuyên đừng xài phí xa hoa,

          Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu”.

        TU HIỀN: Xem chú thích tại bài “Những điều sơ lược cần biết….”, tr. 16.

        NÓNG GIẬN: Xem  bài Luận Về Tam Nghiệp / Ác Sân Nộ, tr. 76.

 

 (3) ĐIỀU RĂN CẤM THỨ BA.

 

CHÁNH VĂN

          Điều thứ ba: Ta chẳng nên ăn-xài chưng dọn cho thái-quá và lợi-dụng tiền tài mà đành quên nhơn-nghĩa và đạo-lý, đừng ích-kỷ và xu-phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.

 

LƯỢC GIẢI :

        Đại lược điều răn cấm thứ ba có ba ý:

        a)- Ý thứ nhứt: Đức Thầy răn tín đồ không nên ăn xài phung phí, chưng diện lòe loẹt từ y phục đến nhà cửa, vì:

        “Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh,

          Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt”.( ĐT)

        Đành rằng người ta phải ăn để sống, mặc để kín thân, song nếu ăn diện thái quá thì có hại về sau:“Khi lành dành khi đau”, tục ngữ thường nói như vậy. Như Đức Thầy hằng cảnh tỉnh:

        “Lo ăn xài trà rượu xình xoàng,

           Chừng khổ não phàn nàn căn số”. Và:

          “Nào lụa là lãnh nhiễu tố sô,

          Chớ ham mến mà sau lao lý”.

        Hơn nữa, trong thời đại chiến tranh loạn lạc, địa ách thiên tai xảy ra liên tiếp, biết bao người cửa nhà tan nát, đói đau rách rưới mà chúng ta là người có trách nhiệm thương yêu đùm bọc:“Lá lành đùm lá rách”(Tục ngữ) Đức Thầy hằng cảnh giác:

        Mảng điểm tô huy hoàng nhà cửa,

          Ai khốn cùng để mặc đất trời xây”.

        Thế nên, người biết Đạo không nên ăn diện thái quá mà nên sống thanh đạm, để có thì giờ tu học và dư tiền của bố thí, giúp đời.

        b)- Ý thứ hai: Việc làm ích kỷ. Từ chỗ ăn xài chưng diện, con người đâm ra ham muốn lợi ích riêng tư rồi nghĩ cách lợi dụng tiền của. Họ lợi dụng lòng tốt của mọi người, của quốc gia, Đạo giáo, không màng nghĩ nhân nghĩa đạo lý là gì. Cho nên, Đức Thầy khuyên tín đồ dầu gặp cảnh nào cũng rèn lòng chân chánh ngay thật, ăn ở đúng theo đạo lý:

                “Ở trần xử trọn nghĩa nhân,

           Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên đài”.

        c)- Ý thứ ba: Bởi lòng tham lam ích kỷ có sẵn, lúc nào người ta cũng muốn danh cho lớn, lợi cho nhiều. Nên thường bưng bợ kẻ giàu sang, quyền tước, phụ bạc người nghèo khổ, thấp kém. Để chừa tánh xấu ấy, Đức Thầy dạy chúng ta:

        Muốn trừ tham phải liệu cách nào ?

           Phải bố thí diệt lòng ích kỷ”.

        Và giữ lòng cương trực đối với mọi người, dù giàu sang hay nghèo khó, đều xem bình đẳng như nhau:

                “Giàu sang nghèo khó cũng người,

           Nên ta thương hết dầu cười hay khen”.( ĐT)

        Chủ đích điều răn cấm thứ ba, Đức Thầy dạy tín đồ rứt bỏ các tật ăn xài chưng diện, lợi dụng tiền tài, tham lam ích kỷ, xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó. Hãy tu tập cho mình có những đức tánh: thanh đạm, chơn thật, ngay chánh và cương trực, bố thí.

 

CHÚ THÍCH :

        THÁI QUÁ: Quá chừng mực, vượt lên mức thường.

        NHƠN NGHĨA: Xem chú thích chữ NHÂN và NGHĨA  ở “Điều răn cấm thứ nhứt”, tr. 179-180).

        ĐẠO LÝ: Xem lại chú thích chữ nầy tại mục “Hành lễ”, tr. 125.

        ÍCH KỶ: Cũng gọi là vị kỷ. Có nghĩa chỉ lo lợi riệng cho mình, ai sao cũng mặc.

        XU PHỤNG: Hùa theo tâng bốc.

        PHỤ: Ở bạc, búng rảy, khinh thường.

       

                                          (4) ĐIỀU RĂN CẤM THỨ TƯ  

CHÁNH VĂN

          Điều thứ tư: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền-rủa, vì Thần Thánh không can phạm đến ta.

 

LƯỢC GIẢI :

        Đại lược điều răn cấm thứ tư gồm có hai phần:

        1)- Phần thứ nhứt là cấm những lời nói ác: Từ lâu người nước ta, nhứt là giới nữ hễ giận hoặc ghét ai nhứt là đối với con  cháu thì thường có tật kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai khiến hoặc trù rủa. Đức Thầy đã diễn tả sự trạng ấy:

        “Trong gia đình chưởi rủa liên miên,

          Hết dương thế kêu sang Thần Thánh.

          Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,

          Cõi Long Cung mời thỉnh tối ngày…”

        Họ dùng lời lẽ như thế đã phạm ác khẩu rất lớn. Bởi:

        Thánh Thần đâu có thiếu tiền,

           Mà kêu mà réo xuống trần mà sai..”.( ĐT)

        Tuy lời lẽ suông, song chuốc lấy tai hại chẳng nhỏ, và sau còn bị trả quả, nên Đức Thầy khuyên:

        “Đời ám u tội trạng thảm thay,

           Khuyên bá tánh bá gia rán bỏ”.

          2)- Phần thứ nhì là phương cách chừa bỏ: Muốn chửa bỏ lời xấu ác nói trên, ta phải thay vào lời nói hiền lương đức hạnh, tao nhã thanh bai để đối xử với mọi người. Đức Thầy dạy:

        “Kể từ nay phải giữ cho tròn,

          Không chừa dứt ắt mang tai ách.

          Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,

          Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.

          Tích thiện thì thường có phước dư,

          Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.    

        Chủ đích của điều răn cấm thứ tư, Đức Thầy dạy tín đồ chừa Ác khẩu và hành Chánh ngữ.

 

CHÚ THÍCH :

        NGUYỀN RỦA: Chửi rủa, dùng lời độc địa để trù rủa người khác phải chết hay bị tai nạn.

        CAN PHẠM: Dính dáng hay mắc vào.

 

(5) ĐIỀU RĂN CẤM THỨ NĂM

 

CHÁNH VĂN

          Điều thứ năm: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát-sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối-lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.

 

LƯỢC GIẢI :

        Điều răn cấm thứ năm có ba ý:

        a)- Ý thứ nhứt là bớt sát sanh: Bởi hạng sơ cơ hành đạo chưa thể trường chay giới sát được, nên phải còn ăn chay kỳ, tất phải còn làm thiệt hại mạng sống các sanh vật hoặc nhiều hoặc ít. Cho nên, Đức Thầy dạy tín đồ, trước tiên nên cữ ăn những con vật quan trọng có công ơn với đời:“ Đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sinh hoạt hằng ngày”(SGTVTB 2004, tr. 188). Từ chỗ biết ơn tiến tới lòng nhơn và từ bi, bình đẳng (trường chay).

        b)- Ý thứ nhì là không giết sanh vật cúng tế: Vì các bậc Thần Thánh ở cảnh giới siêu hình chẳng có xác thể như loài người, và mọi cảnh giới đều có thức ăn riêng, đâu dùng vật thực như chúng ta. Hơn nữa, các Ngài từ nơi có lòng ngay thẳng công bình yêu dân ái quốc mới thành Thần Thánh. Các Ngài có bổn phận ủng hộ chúng sanh, chớ đâu có vì ăn đồ cúng kiếng mà ban phước, hay vì thiếu sự lo lót mà giáng họa:

        “Đấng thần minh công bình trực dạ,

           Đâu ăn lo đổi họa làm may.( ĐT)

        Căn cứ vào luật nhân quả, ai làm lành hưởng phước, tạo ác mang tai, sát sanh hay bịnh tật và chết yểu:

        Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,

          Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.( ĐT)

        Cho nên, Đức Thầy hằng khuyên dạy môn đồ:

        “Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy,

          Điều họa phước ấy cơ báo ứng”.( ĐT)

        c)- Ý thứ ba là nhận định tà chánh: Nếu chúng ta còn mê tín giết sanh vật cúng Thần Thánh để cầu phước thì chỉ có Tà thần hưởng thôi ! Mà hễ họ hưởng được một lần tất ăn quen, tìm cách phá khuấy ta nữa. Thử xét việc thế gian là biết: hễ có quan thanh liêm thì cũng có hạng quan ăn hối lộ. Họ mang hình thức giống nhau, nhưng tâm ý có kẻ tà, người chánh. Vì thế, Đức Thầy khuyên:

                “Đừng theo lũ quỉ lũ ma,

          Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen”.

          Chủ đích điều răn cấm thứ năm là Đức Thầy muốn dạy tín đồ bớt sát sanh và bỏ sự tin mù quáng. Hãy tập đức hiếu sanh và tin đúng lý nhân quả.

        (Qua lý trên, ta thấy một vài Hội quán, nhân ngày giỗ Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực hàng năm , bày heo quay cúng tế là phạm phải một lỗi lầm đáng tiếc nên cần  tránh).

 

CHÚ THÍCH :

        THÁNH THẦN: Xem chú thích bài “Ác sát sanh”, tr. 52.

        NHIỄU HẠI: Khuấy rối, gây khổ nạn.

 

 (6)  ĐIỀU RĂN CẤM THỨ SÁU

 

CHÁNH VĂN

          Điều thứ sáu: Ta không nên đốt giấy tiền vàng-bạc, giấy quần-áo mà tốn tiền vô-lý, vì cõi Diêm-Vương không bao giờ ăn hối-lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng-phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường, đói rách, tàn tật.

 

LƯỢC GIẢI :

        Điều răn cấm thứ sáu có hai phần:

        a)- Phần thứ nhứt là bỏ mê tín thành chánh tín:

        Điều nầy trước hết Đức Thầy cấm: Không cho tín đồ đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo cho người chết. Trước năm Kỷ Mão (1939), dân ta còn tin tưởng điều rất vô lý là tục lệ đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, vì chưa chịu xét nét rõ ràng. Tục lệ ấy do người Tàu bày ra trong thời nước ta bị họ thống trị.

        Nguyên khởi là do Vương Luân (cháu của Vương Dư) lập mưu với người bạn giả chết, đợi khi đem chôn, Luân bèn đem giấy tiền vàng bạc đến đốt, nói để xin chuộc mạng. Khi đốt xong, bạn của Vương Luân sống lại. Do đó người đời tin theo, thậm chí tín đồ Phật Giáo và Nho Giáo cũng mê tín, thật là điều đáng tiếc. Đức Thầy thường cảnh tỉnh:

        Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,

           Chớ có đốt tốn tiền vô lý”.

        Theo Kinh Phật: Âm Phủ tức là cảnh giới Địa ngục, do Diêm La Vương cai quản rất công bình ngay chính. Những kẻ ở thế gian làm điều tội lỗi có khi qua mắt pháp luật, nhưng lúc chết tới trước Diêm Vương, không dấu được điều nào cả, thế thì làm sao hối lộ cho được. Đức Thầy bảo:

        Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác.

          Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm đình.

          Sổ sách kia tội phước đinh ninh,

          Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ”.

        Đã tu hành thì ai cũng muốn cho mình và ông bà cha mẹ được về Tiên Phật, lúc đó lại lo gởi tiền xuống Địa ngục. Tu để đi lên mà tâm nguyện thì đi xuống, thử hỏi có trái ngược và vô lý không ? Đức Thầy còn giác tỉnh thêm:

          Vàng bạc bởi tay khách trú làm,

            Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.

        Giấy quần giấy áo không nên đốt,

          Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm”.

        b)- Phần thứ hai: tiết kiệm để bố thí: Suốt cuộc đời của con người, số tiền dùng vào việc mê tín nói trên không ít, nên Đức Thầy khuyên nhân sanh đừng làm nữa; hãy để dành số tiền lãng phí đó dùng vào việc phước thiện.

                “Muốn cho rắn đặng hóa cù,

          Xả thân làm phước Diêm Phù vượt qua”.

        Và:

        “Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,

           Mở lòng nhơn tiếp rước mới là”.

        Hoặc là:

        “Nếu đã xả thân tầm Đạo đức,

          Mở lòng bố thí ngộ thần ca”.

        Chủ đích điều răn cấm thứ sáu, Đức Thầy dạy tín đồ phá óc mê tín tà kiến, hãy rèn luyện cho mình được chánh tín, đúng với chơn lý và mở lòng bố thí, vun trồng cội phúc.       

        Vun trồng cội phúc chờ mùa trổ bông.( ĐT)

 

CHÚ THÍCH :

        GIẤY TIỀN: Xem chú thích mục Tang lễ, tr. 129.

        VÔ LÝ: Không có lý, không hợp với lẽ phải, không đúng với sự thật (chơn lý).

        CÕI DIÊM VƯƠNG: Cảnh giới địa ngục. Diêm Vương cũng gọi là Diêm chúa hay Diêm La Pháp Vương hoặc là Bình Đẳng Vương. Ngài là vua cõi Thiên ma tức là cõi Địa ngục; Ngài thường khuyên kẻ làm lành và trừng trị kẻ gian ác, nên có danh xưng là Pháp Vương. Ngài luôn luôn lấy lòng bình đẳng, công bằng mà xử trị tội nhân, không hề tư vị một ai nên được xưng tụng là Bình Đẳng Vương. Đức Thầy bảo:

                “Ngục môn đầy quỉ vô thường,

           Dắt hồn kẻ bạo Diêm Vương luật trừng”.

        TRỢ CỨU: Cũng gọi là cứu trợ. Có nghĩa đem tiền của, vải sồ, lúa gạo, thuốc men giúp cho những người đói rách, bệnh tật, tai nạn…

 

 (7) ĐIỀU RĂN CẤM THỨ BẢY

 

CHÁNH VĂN

          Điều thứ bảy: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo-đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán-đoán việc ấy.

 

LƯỢC GIẢI :

        Điều răn cấm thứ bảy gồm có hai phần:

        a)- Phần thứ nhứt là suy nghĩ nghiệm xét: Điều nầy Đức Thầy dạy tín đồ hãy dùng chánh trí và chánh kiến mà suy xét, nhận định mọi việc đời cũng như Đạo cho rõ ràng, đúng với sự thật. Việc đời là việc cư xử với mọi người, từ trong gia đình thân tộc, đến ngoài xã hội quốc gia. Đây thuộc phần tu Nhân.

        Việc đạo đức là dùng trí huệ xét nghĩ mọi tư tưởng: lành dữ, chơn vọng, tà chánh trước khi nói hay làm. Đây thuộc phần tu Phật.

        b)- Phần thứ hai là quyết định để thi hành: Tức là sau khi đã suy xét và nhận định một cách sáng suốt, chín chắn, hành giả mới nói hay làm, nên không hề bị lầm lẫn đáng tiếc. Việc đời thì phán đoán theo nhân đạo công bình và chánh nghĩa. Còn việc Đạo thì đúng theo chơn lý và vô vi thật tướng không còn lầm lộn trong “Ngũ độn sử” và “Ngũ lợi sử”. Đức Thầy luôn chỉ dạy:

         “Dầu việc người hay việc của ta,

          Nên phán đoán cho tường cho tận.

          Tội với phước xét coi nhiều bận,

          Mới khỏi lầm tà kiến đem vào”.

        Tóm lại, điều răn cấm thứ bảy là chìa khóa giúp cho hành giả mở rộng cửa tâm chơn lý để chứng thành Phật Đạo. Ví như người đi đêm có sẵn ngọn đuốc tột sáng không hề lầm đường lạc nẻo.

        Chủ đích điều răn cấm thứ bảy là Đức Thầy dạy tín đồ dẹp phá tà kiến, mê lầm và diệt trừ mười món phiền não căn bản (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến /ngã kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến) để rèn luyện cho mình được chánh trí và chánh kiến. Sự tự lực (Thiền Tông) ấy giúp ta  đạt thành Phật Đạo.

 

CHÚ THÍCH :

        ĐẠO ĐỨC: Xem chú thích “Lời nói đầu”, tr. 10.

        MINH LÝ: Dùng như chữ Chánh trí và Chánh kiến. Có nghĩa suy xét mọi việc một cách sáng suốt, chân chánh, không lầm ác kiến và tà kiến gọi là chánh trí (Minh). Phân định mọi việc một cách công bằng đúng với chơn lý, không thiên chấp theo ngụy tà, ác kiến, ấy là chánh kiến (Lý).

        Đức Thầy có câu:

        “Luận bàn chơn lý cho minh,

          Việc chi xét đoán xảo tinh mới là”.

        NGŨ ĐỘN SỬ: Năm món phiền não ngu độn; gồm có:

        1-Tham: Lòng ham muốn quá độ.

        2-Sân: Tâm nóng nảy thù hận.

        3-Si: Lòng mê tối lầm lỗi (Ba món Tham, Sân, Si : xem thêm phần “Ý nghiệp” trong bài “Luận về Tam nghiệp”, tr. 71-82).

        4-Mạn: Tánh ngã mạn cống cao, tự phụ, háo thắng.

        5-Nghi: Lòng nghi ngờ do dự, không quyết đoán.

        NGŨ LỢI SỬ: Năm món phiền não lanh lợi là:

        1-Thân kiến: Chấp thân ngũ uẩn giả hợp là thật.

        2-Biên kiến: Chấp một bên, như chấp thân nầy còn hoài, hay chấp thân nầy chết đi là hết hoặc chấp có, chấp không…

        3-Tà kiến: Chấp theo các chủ thuyết tà, như mê tín dị đoan, chẳng tin lý nhân quả, ngược lại Chánh kiến.

        4-Kiến thủ: Bảo thủ các điều hiểu biết sai lầm của mình, cho các ý kiến đó là đúng, là phải.

        5-Giới cấm thủ: Chấp thủ các giới lặt vặt vô lý, như: ép xác hành khổ, bớt ăn bớt ngủ hoặc ngủ ngồi không nằm…

 

                                        (8) ĐIỀU RĂN CẤM THỨ TÁM

 

CHÁNH VĂN

          Điều thứ tám: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu-dắt lẫn nhau vào con đường đạo-đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây- phương an-dưỡng mà học Đạo cho hoàn-toàn đặng trở lại cứu vớt chúng-sanh.

 

LƯỢC GIẢI :

        Điều răn cấm thứ tám gồm có ba ý:

        1)- Ý thứ nhứt là tinh thần thương yêu đoàn kết:

        Bởi Đạo Phật là Đạo từ bi, tình Đạo Phật là tình thương yêu đoàn kết. Chẳng những có tình thương yêu giữa đồng Đạo mà còn thương cả nhân loại:“Nếu thiệt người thì biết thương người”.

        Vả lại, cây từ bi được mọc lên từ hạt giống tình thương (lòng nhơn), rồi trổ quả Bồ đề (chánh giác). Cho nên, muốn được quả Phật, hành giả phải có tình thương là trước nhất, song tình thương yêu phải đặt cho đúng chỗ. Đức Thầy cho biết:

        “Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

        Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh”.

        Tình thương phải thương nhau như ruột thịt: như một bàn tay có năm ngón, rủi có một ngón bị đứt hay gãy đi, cả bàn tay đều bị đau. Thế nên, ta và mọi người không thể phân chia thù ghét mà phải thương yêu đoàn kết lẫn nhau:“Ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy.( ĐT)

        2)- Ý thứ hai: thể hiện lòng giác tha: tức là:“…dìu dắt lẫn nhau vào con đường Đạo đức”.Bởi chỉ có con đường Đạo đức mới giúp cho ta và mọi người hết khổ. Nếu ta có được lòng tự giác và tình thương mà không thể hiện với mọi người thì còn trong vòng ích kỷ tu thân, nên ta phải thấy rằng:“Ta có cái bổn phận giác ngộ trần gian bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt…”(ĐT) để ta cùng mọi người cùng nương nhau tiến tới chỗ trọn lành trọn sáng, chứng thành Đạo quả như nhau.

        3)- Ý thứ ba: Tu cho mình được trọn lành, trọn sáng: Điều nầy Đức Thầy dạy có hai cách:

          – Cách thứ nhứt: Đáp Tứ ân và diệt Thập ác là Trọn lành, Hành Bát Chánh Đạo là Trọn sáng.

        a)- Vậy ai muốn cho mình được trọn lành phải ngăn ác và hành thiện. Vì nguyên nhân của luân hồi sanh tử là do 10 điều ác (trong tam nghiệp), chính nó là nghiệp nợ (nợ do mình gây tạo), nên khi trừ dứt nghiệp nợ gọi là ngăn ác. Còn đáp Tứ ân là trả được ân nợ (nợ do mình thọ ân) và còn tạo được vô lượng phước đức nên gọi là hành thiện.

        Lại nữa, người tu ví như kẻ làm ruộng:“Phải ăn năn phước điền tạo tác, song muốn ruộng kết quả, trước phải nhổ cỏ (ngăn ác) rồi mới đem lúa gieo vào (hành thiện thì ruộng mới trúng). Bằng gieo lúa mà không làm sạch cỏ thì cỏ ăn hết lúa. Thế nên Đức Thầy dạy:“Muốn làm tròn nhân Đạo phải giữ vẹn Tứ ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ”. Đây thuộc phần “tu Nhân”; có ngăn ác và hành thiện được mới gọi là trọn lành.

        b)- Muốn được trọn sáng, hành giả phải hành “Bát Chánh Đạo” và “Niệm Phật”. Đây thuộc phần “Học Phật” tức “tu Phật”. Bởi hành giả có diệt trừ vọng niệm phiền não, tâm mới thanh tịnh và trí huệ phát khai (trọn sáng)  nên phải trì hành Bát chánh đạo. Vì trong đây có : Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định. Sáu cái chánh nầy giúp ta diệt hết phiền não, tán loạn, tức:“Tâm bình tịnh được thì phát huệ”. Hoặc hành giả chuyên tâm niệm Phật để trừ vọng niệm chúng sanh (phiền não) cho đến khi “Nhứt tâm bất loạn” và được đồng hòa với “Bản lai thanh tịnh” tức trí huệ sáng mầu, ấy gọi là trọn sáng.

        Cách thứ hai: Tu theo ba điều cần yếu của Đức Thầy chỉ dạy:“Làm hết các việc từ thiện” và “Tránh tất cả điều độc ác” là trọn lành. Còn “Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch” là trọn sáng.  

        Đại lược ý thứ ba là nếu người tu được trọn lành trọn sáng, dù chưa đắc Đạo tại thế gian cũng được vãng sanh về Cực Lạc và sau khi hoàn thành Bồ Tát Đạo thì trở lại cứu độ chúng sanh.

        Chủ đích điều răn cấm thứ tám, Đức Thầy dạy tín đồ tu pháp môn Tịnh Độ: Niệm Phật làm lành, tránh ác và diệt trừ phiền não…Đồng thời hãy mở lòng thương yêu đoàn kết, tự giác, giác tha, để tiến tới trọn lành trọn sáng (giác hạnh viên mãn).

 

 

ĐOẠN KẾT TÁM ĐIỀU RĂN CẤM

 

CHÁNH VĂN

          Tất cả thiện nam tín nữ trong Tôn-giáo nhà Phật lúc rảnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ-gìn phong-hóa nước nhà, giữ những tục-lệ chơn-chánh, bỏ tất cả những sự dị đoan mê tín thái quá mà làm cho đạo-đức suy-đồi.

                Đạo pháp thường hay dung với hoà,

                Xét người cho tột, xét thân ta.

                Nếu người rõ phận vui lòng thứ,

                Ta thứ được người, người thứ ta.

 

LƯỢC GIẢI

        Theo chúng tôi được biết cũng như nhiều đồng đạo xác định thì đoạn kết của Tám điều răn cấm trước kia, không có bài thi “Đạo pháp thường hay dung với hòa…” mà sau chót bài “Lời khuyên bổn đạo” bên “Thi Văn Giáo Lý” lại có bài thi nói trên; nên ở đây chúng tôi không lược giải, để sau nầy sẽ giải chung với bài “Lời khuyên bổn đạo”.

        Còn điều nữa: Theo Ông Đặng Thành Tựu cho biết: lúc ông chép “Tám Điều Răn Cấm” tại Tổ đình (1939) thì đoạn kết bây giờ còn thiếu ba hàng, gồm 33 chữ. Có lẽ Ban Sưu Tập làm sót. Nay tôi xin chép vào đây để chư tín hữu nghiệm xét, ai muốn học hay không tùy ý (sau nầy có dịp chúng ta sẽ nghiên cứu, bàn thảo lại). 33 chữ đó như sau:

        “Trong các điều răn cấm và yếu lý chỉ dạy trên đây, mong rằng các thiện nam tín nữ rán ghi nhớ mà hành y hầu có lần bước lên đường giải thoát”.

 

CHÚ THÍCH :

        THIỆN NAM TÍN NỮ: Xem chú thích bài “Ân đồng bào…” , tr. 40.

        PHONG HÓA: Phong tục và sự giáo hóa tốt đẹp của nước nhà từ trước. Đức Thầy dạy:

        “Rán giữ gìn phong hóa nước nhà”.

        SUY ĐỒI: Sụp đổ, tệ hại.

        YẾU LÝ: Lý lẽ cốt yếu. Tuy nói ít, nhưng gom hết phần cần yếu trong đó.

 

 

CÔNG DỤNG TÁM ĐIỀU RĂN CẤM:

        Nghiên cứu qua Tám điều răn cấm của Đức Thầy chỉ dạy, tuy thấy đơn giản, nhưng công năng và diệu dụng rất sâu rộng và mầu diệu vô cùng. Tạm chia làm bốn phần như sau:

        1-Bảo trợ “Tôn chỉ Học Phật Tu Nhân”: Một con lộ có hai bờ lề, cây cầu có hai hàng lan can để bảo vệ người đi và xe cộ khỏi vượt ra ngoài, khỏi phải sa xuống hầm hố hiểm nguy…

        Con đường đạo mà Đức Thầy đã khai vạch:

                Đạo là vốn thiệt cái đàng,

          Ta ra sức dọn cho toàn chúng sanh”. 

        Ấy là tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” cho toàn thể tín đồ, y cứ theo đó mà tu tiến không bị lệch lạc. Ngài cho đóng hai bên lề hai hàng rào, để bảo trợ tức là Tám điều răn cấm . Như ta đã thấy điều răn cấm thứ nhứt vừa giúp cho hành giả hoàn thành Nhân Đạo, vừa làm nền tảng bước lên Phật Đạo, như xa lánh Tứ đổ tường và giữ tròn luân lý “Tam cang ngũ thường” mà trong « ngũ thường » lại có chữ Nhân, chữ Trí. Nhân là hột giống từ bi (Phật). Còn Trí là ngọn đuốc soi sáng lối đi ra khỏi sanh tử.

        “Nương theo đuốc huệ tầm chơn lý,

          Lóng tiếng từ bi diệt dục lòng”.( ĐT)

        Đã có nền tảng căn bản (điều 1) thì từ điều 2 tới điều 6, Ngài dạy tín đồ phá trừ dị đoan mê tín và rèn luyện các đức tánh thiện mỹ khác để chuyển sang điều 7 và điều 8 hoàn thành Phật Đạo.

        2-Tóm lược yếu pháp PGHH: Nghiên cứu qua Giáo lý PGHH, ai cũng thấy Đức Thầy đưa ra một diệu pháp cốt yếu cho chương trình tu Phật (Học Phật) là “Thiền Tịnh song tu”. Tức là hành giả vừa tu tự lực và vừa tu cầu tha lực. Thế nên, trong điều 7 Ngài dạy tín đồ dùng sức tư duy (suy xét) của mình mà phát triển chánh trí, mới phá tan các phiền não ác kiến để được cái nhìn Chánh kiến, đúng với sự thật (chơn lý) không còn lầm lạc trong luân hồi sanh tử. Ấy gọi là “Thiền Tông”.

         “Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng nghiệp,

           Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên”.( ĐT)

        Đến điều răn thứ tám, Đức Thầy dạy tín đồ tu cầu tha cứu, tha độ (Tịnh độ). Trước nhứt, mở lòng vị tha bác ái, thương yêu đoàn kết với mọi người, để dìu dắt lẫn nhau cùng tu cùng tiến. Nhứt là chuyên tâm niệm Phật, làm lành cho đến khi được trọn lành trọn sáng. Nếu chưa thành Đạo tại thế gian cũng được oai đức của Phật  A  Di Đà tiếp độ về cõi Cực Lạc. Đức Thầy từng dạy:

        “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ.

            Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.

            Nếu như ai cố chí làm lành

            Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật quốc.

            Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,

            Dầu tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh.

            Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,

            Được cứu cánh về nơi an dưỡng.

            Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,

            Thoát mê đồ dứt cuộc  luân hồi”.

        3– Gồm đủ giới luật cho các hàng tu chứng: Xưa nay người tu có nhiều hạng, sự trì giới tất có nhiều ít khác nhau, như hạng tại gia thì giữ ngũ giới, mà trong điều một nếu ai thi hành được Ngũ thường thì không phạm Ngũ giới.

        Hạng xuất gia giữ 10 giới hay 250 giới hoặc 348 giới…Song dầu có bao nhiêu giới cũng giúp cho hành giả tánh tướng đều thanh tịnh, tức được trọn lành trọn sáng. Thì đây điều 7 và 8 giúp cho hành giả tu đạt chánh tríchánh kiến, dẹp hết 10 món phiền não căn bản (Ngũ lợi sử và Ngũ độn sử). Được vậy thì 8 vạn 4 ngàn trần lao nhiễm não đâu còn. Cho nên, nói « 8 điều răn cấm » có diệu dụng: gồm đủ giới luật cho các hàng tu chứng.

        4- Hàm Nhiếp Tam Tụ Giới của Chư Bồ Tát: Thuở Đức Thích Ca còn trụ thế, Ngài có lên cung Trời Phạm Võng thuyết Kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới” cho

chư Bồ Tát nghe và trì hành Đại cương trong đó gồm có 3 phần: “Nhiếp Luật nghi giới, Nhiếp Thiện nghiệp giới, Nhiêu ích hữu tình giới”.

        Nghiên cứu qua Tám điều răn cấm của Đức Thầy dạy rất phù hợp với Tam Tụ giới nói trên.

        a)- Nhiếp luật Nghi Giới: Giữ giới để tránh các điều xấu ác. Trong tứ tướng oai nghi và 3 nghiệp Thân, Khẩu, Ý người tín đồ PGHH lúc nào cũng gìn giữ không để quấy phạm một điều tội ác  nào. Như điều 1: tránh xa tửu, sắc, tài, khí; điều 2: bỏ tánh lười biếng, giải đãi, thù hận, sân si; điều 3: trừ lòng tham lam ích kỷ, lợi dụng tiền tài, tham sang phụ khó; điều 4: chừa ác khẩu; điều 5 và 6; không sát sanh và mê tín dị đoan; điều 7: diệt sạch mê si tà kiến (gốc tội lỗi).

        b)- Nhiếp Thiện Nghiệp Giới: Giữ giới để hoàn thành hạnh nghiệp tốt lành. Như điều 1: xử vẹn Tam cang, Ngũ thường; điều 2: tu được các đức tánh thanh đạm, cương trực và chơn chánh; điều 4: hành được chánh ngữ; điều 5: được đức hiếu sanh và chánh tín; điều 6: được tánh tiết kiệm và bố thí; điều 7: được chánh trí và chánh kiến; điều 8: được lòng từ bi và đoàn kết, tự giác giác tha và trọn lành trọn sáng.

        c)- Nhiêu Ích Hữu Tình Giới: Nương giới để làm lợi ích cho các giới chúng sanh. Như điều 5: thể hiện lòng nhơn nghĩa và đức hiếu sanh; điều 5: thực hành pháp bố thí; điều 8: thi thố đức bác ái vị tha, phát tâm thi hành Bồ tát hạnh, lúc nào cũng muốn mình và mọi người, mọi giới đều được an vui giải thoát.

        Tổng kết, Tám điều răn cấm tuy thấy giản dị, nhưng nếu người trì hành chín chắn, sẽ được công dụng vô biên. Như có lần Đức Thầy sắp 8 con số 8 thành bài toán cộng rồi Ngài cộng xuống ra đáp số 1.000, Ngài nói:“ Đây là phần sự của bài toán thôi, còn phần lý của nó là tám điều răn cấm”. Ngài dạy tiếp:“Nếu ai giữ đúng không vi phạm sẽ được 1.000 việc phước nhân. Một ngàn việc phước nhân ấy có diệu năng đưa mình đến Hội Long Hoa hay về cõi Cực Lạc, giải thoát sanh tử”.

        Tóm tắt, tám điều răn cấm bao hàm đủ muôn hạnh, muôn giới cho người tu. Từ cư sĩ đến xuất gia từ hàng Thinh Văn đến Bồ Tát, tùy theo tâm đức và công năng thọ trì của mỗi hành giả mà hạng nào cũng được kết quả như ý.